Đồng tiền Việt Nam: Dòng chảy âm thầm tạo thế và lực cho quốc gia
Hơn 74 năm đồng hành cùng đất nước, ngành Ngân hàng vẫn giữ trọn sứ mệnh – giữ gìn giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, làm điểm tựa vốn vững chắc cho người dân, doanh nghiệp.
Trải qua hơn 74 năm phát triển, ngành Ngân hàng Việt Nam đã đi qua nhiều giai đoạn thăng trầm, từ khi thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam năm 1951 giữa khói lửa chiến tranh, đến giai đoạn đổi mới theo cơ chế thị trường, và ngày nay là bước chuyển mạnh mẽ trong chuyển đổi số.
Hệ thống ngân hàng đã trở thành trụ cột của nền kinh tế, đóng vai trò trung tâm trong huy động vốn, điều tiết tiền tệ, hỗ trợ doanh nghiệp và thúc đẩy phục hồi sau đại dịch. Với nền tảng tài chính vững mạnh, chiến lược số hóa toàn diện và khát vọng vươn ra khu vực, ngành ngân hàng Việt Nam đang định hình lại vị thế trong một nền kinh tế toàn cầu hóa.
Đồng tiền độc lập và tiền tuyến ngân hàng giữa bom đạn
Ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ đứng trước thách thức nghiêm trọng về tài chính – tiền tệ. Kho bạc chỉ còn lại hơn 1,25 triệu đồng Đông Dương, một nửa trong đó là tiền rách. Trong khi đó, Ngân hàng Đông Dương vẫn nằm trong tay tư bản Pháp, tìm cách cản trở hoạt động tài chính của chính quyền cách mạng.
Để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cấp bách của chính quyền cách mạng non trẻ, ổn định nền tài chính cách mạng, Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giao cho Bộ Tài chính tổ chức in, phát hành Giấy bạc Tài chính Việt Nam. Ngày 15/11/1945, Cơ quan Ấn loát thuộc Bộ Tài chính được thành lập với nhiệm vụ vô cùng quan trọng là tập trung in Giấy bạc Tài chính (đồng bạc Cụ Hồ) cho Chính quyền cách mạng và phục vụ cho nhu cầu sản xuất, chiến đấu và đời sống của nhân dân.
Tuy nhiên, do chưa in đủ số giấy bạc để thay thế hết tiền Đông Dương trên thị trường vì điều kiện thiếu thốn, khó khăn, phần vì sau Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946, mong muốn kéo dài nền hòa bình cho đất nước, Chính phủ không muốn làm tổn hại đến quan hệ ngoại giao Việt-Pháp nên thời kỳ này, đồng tiền Đông Dương vẫn lưu hành song song với tiền Việt Nam.

Vài hình ảnh tiêu biểu trên đồng tiền của Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. (Nguồn: Ngân hàng Nhà nước)
Để chủ động về tiền tệ, đồng thời phục vụ cho kháng chiến và kiến thiết đất nước, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (năm 1951), Đảng ta đã xác định phải thành lập Ngân hàng Quốc gia, phát hành đồng bạc mới và cải tiến chế độ tín dụng.

Các loại tín phiếu Liên khu V. (Nguồn: Ngân hàng Nhà nước)
Ngày 6/5/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam tại hang Bòng, xã Tân Trào, Tuyên Quang. Đây là mốc son đặt nền móng cho hệ thống ngân hàng độc lập của Việt Nam. Ngân hàng Quốc gia có nhiệm vụ quản lý việc phát hành tiền, điều tiết lưu thông, huy động vốn và phục vụ hoạt động sản xuất – lưu thông.
Từ đây, một hệ thống ngân hàng thống nhất dần được hình thành và trở thành một bộ phận nòng cốt của lực lượng kinh tế quốc doanh trong kháng chiến chống Pháp, góp phần rất quan trọng củng cố hệ thống tiền tệ độc lập, tự chủ của đất nước, phát triển sản xuất, lưu thông hàng hóa, tăng cường lực lượng kinh tế quốc doanh, phục vụ cuộc kháng chiến chống Pháp.
Sau Hiệp định Genève năm 1954, đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền. Trong bối cảnh đó, ngành ngân hàng tiếp tục giữ vai trò trung tâm trong việc thiết lập thị trường tiền tệ thống nhất ở miền Bắc, đồng thời chi viện tài chính cho chiến trường miền Nam.

Hang Bòng (xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang) - nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh 15-SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, ngày 6/5/1951. (Ảnh tư liệu)
Ngày 26/10/1961, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được đổi tên thành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Cũng trong giai đoạn này, Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam và Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam được thành lập và đi vào hoạt động. Đến cuối năm 1964, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có quan hệ hợp tác với 265 ngân hàng tại 41 nước trên thế giới.

Ông Lê Viết Lượng, Tổng Giám đốc Ngân hàng Quốc gia Việt Nam chủ trì phiên họp đầu tiên của Ban Lãnh đạo Ngân hàng tại Hà Nội (1954). (Nguồn: Ngân hàng Nhà nước)
Năm 1968, yêu cầu chi viện khẩn cấp cho chiến trường miền Nam ngày càng lớn, trong đó có nhu cầu chi viện về tài chính, tiền tệ. Theo chỉ đạo của Trung ương Đảng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã cử đoàn cán bộ (đoàn B-68) để bổ sung cho chiến trường miền Nam. Trong đó, một số cán bộ về Trung ương Cục Miền Nam đã kết hợp với cán bộ B tại chỗ để thành lập Ban Ngân khố Tín dụng R, phiên hiệu đơn vị là C32, là một bộ phận của Ban Kinh Tài thuộc Trung ương Cục Miền Nam.
Tập thể C32 gồm những chiến sĩ thầm lặng hoạt động trong điều kiện bí mật, nguy hiểm, nhiều khó khăn, thiếu thốn, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, mưu trí, dũng cảm, sáng tạo, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiếp nhận, vận chuyển ngoại tệ, bảo quản tuyệt đối an toàn hàng trăm triệu đôla Mỹ để cung cấp kịp thời cho tiền tuyến đồng thời đã tiếp quản tốt hệ thống ngân hàng ngụy sau giải phóng Sài Gòn.
Huyền thoại con đường tiền tệ
Thống nhất là khát vọng muôn đời của dân tộc Việt, ngọn lửa khát vọng ấy khi âm ỉ, khi bùng cháy nhưng không bao giờ tắt. Con đường thống nhất của dân tộc Việt Nam chưa bao giờ bằng phẳng, có những con đường đã trở thành huyền thoại như: “đường mòn Hồ Chí Minh”, “đường Hồ Chí Minh trên biển.” Thế nhưng còn có một con đường quan trọng khác mang tên “con đường tiền tệ” - để chi viện cho chiến trường miền Nam. Giai đoạn 1954 -1975 chứng kiến những câu chuyện kỳ lạ về đồng đô la trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Cho tới ngày nay, nhiều người vẫn chưa thể hiểu nổi, làm sao chỉ với số lượng người ít ỏi, mọi thứ máy móc đều lạc hậu, quá trình vận chuyển thô sơ mà hàng trăm triệu USD của bạn bè quốc tế viện trợ cho nhân dân Việt Nam vẫn kịp thời vượt qua bom đạn, qua sự kiểm soát gắt gao của địch để đến các chiến trường ác liệt nhất ở Miền Nam, phục vụ cuộc kháng chiến giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Ông Lê Văn Châu - nguyên Phó Thống đốc - nguyên cán bộ Quỹ Ngoại tệ đặc biệt B29 chia sẻ, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị và Trung ương Cục miền Nam mang bí số B29 (Trung ương), C32 (bộ phận kho quỹ của Ban Kinh – Tài thuộc Trung ương Cục) và B6 (Ban tài chính đặc biệt với các phiên hiệu B68, D270, N2683…) đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hiểm nguy trong bom đạn cũng như sự kiểm soát gắt gao của địch để chi viện cho chiến trường.
Từ những phương thức vận chuyển tiền mặt (AM) hết sức thô sơ, tốn kém, sau đó các cán bộ chiến sĩ ngân hàng đã chuyển đổi sang phương thức chuyển khoản (FM), giúp cho việc vận chuyển tiền từ quỹ đặc biệt ở Hà Nội vào Nam đã rút từ 30 ngày xuống còn 6 ngày và sau đó chỉ còn 30 phút. Bên cạnh đó, còn có một “đường dây” bí mật làm nhiệm vụ đổi ngoại tệ và tiếp nhận các nguồn viện trợ của bạn bè quốc tế.
Ông Châu cho biết thêm, sau 10 năm làm nhiệm vụ, đến tháng 4/1975, các cán bộ chiến sĩ ngành ngân hàng đã chi viện cho chiến trường miền Nam khoảng 1 tỷ USD, hàng tỷ tiền Sài Gòn và hàng trăm triệu tiền Campuchia, Kíp Lào, Bath Thái Lan… Tất cả số viện trợ đó đều được vận chuyển, bảo quản an toàn, cấp phát theo quy định, không thiếu một xu.

Hòm sắt cỡ lớn mà B.29 dùng để chuyển tiền vào miền Nam. (Nguồn: Ngân hàng Nhà nước)
Còn ông Võ Hồ Việt (Bảy Thu) - nguyên cán bộ Ban Tài chính đặc biệt N2683 chia sẻ những câu chuyện về kỷ vật chiếc xe máy Honda 67 của đồng chí Lữ Minh Châu được sử dụng để làm phương tiện đi về Trung ương Cục làm việc hoặc chuyển tiền trong giai đoạn 1965-1970. Từ 1970 đến sau đảo chính Campuchia, chiếc xe được giao cho đơn vị và giao cho người khác sử dụng cùng với các chiếc xe khác tiếp tục làm nhiệm vụ chuyển tiền.
“Đây là chiếc xe có phân khối lớn, loại lớn, có thể đi đường đèo dốc đường rừng rất bốc. Mỗi lần đi chuyển tiền, chúng tôi ăn mặc như con buôn, ra đường sinh hoạt như dân, chở tiền trang bị giống như dân buôn hàng hóa nên không ai biết. Đồng chí Lữ Minh Châu nguyên là cán bộ được đào tạo về kinh tế ngân hàng tại Liên Xô, sau khi hoàn thành nhiệm vụ về được đồng chí Mười Phi – Nguyên trưởng ban tài chính đặc biệt N2683 - tức đơn vị phía Nam đặt vấn đề với đồng chí Phạm Hùng xin về làm nhiệm vụ cho đơn vị…” ông Bảy Thu cho biết.
Cũng theo nguyên lãnh đạo ngành Ngân hàng, thời kỳ này, hệ thống ngân hàng Việt Nam còn khá sơ khai và thiếu thốn về cơ sở hạ tầng. Chính sách tài chính của Nhà nước chủ yếu tập trung vào việc duy trì ổn định nền kinh tế trong bối cảnh đất nước còn chiến tranh và khó khăn. Ngân hàng không khóa, hay còn gọi là ngân hàng hoạt động theo kiểu không có hệ thống kiểm soát và theo dõi chặt chẽ như hiện nay, khiến cho một phần lớn tài sản và tiền tệ vẫn nằm ngoài vòng kiểm soát của hệ thống ngân hàng chính thức.
Ngoài ra, trong thời kỳ này, kho tiền chủ yếu nằm trong nhân dân, những người dân ở các vùng nông thôn không có thói quen gửi tiền vào ngân hàng, mà thay vào đó là giữ tiền trong nhà, gây khó khăn cho việc quản lý nguồn tài chính quốc gia.
Từng bước được cải tổ, vững vàng qua khủng hoảng
Ngay sau khi đất nước thống nhất năm 1975, Chính phủ tiến hành thu đổi tiền ở miền Nam để ổn định kinh tế. Từ đó, hình thành hai khu vực lưu hành tiền tệ: miền Bắc dùng tiền do Ngân hàng Nhà nước phát hành, miền Nam dùng tiền của Ngân hàng Quốc gia miền Nam. Đến năm 1978, hai loại tiền được thống nhất lại nhưng hệ thống ngân hàng vẫn mang tính kế hoạch hóa cao, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Nhà nước, chủ yếu thực hiện nhiệm vụ cấp phát vốn và thanh toán, chứ chưa thực sự vận hành theo quy luật thị trường.


Cuốn sổ tiết kiệm những năm 70. (Nguồn: Ngân hàng Nhà nước)
Bước ngoặt lớn đến vào năm 1986, khi Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đây, ngành ngân hàng bắt đầu quá trình cải cách sâu rộng.
Các ngân hàng thương mại cổ phần dần xuất hiện, chấm dứt tình trạng một ngân hàng thực hiện cả chức năng trung ương lẫn thương mại. Năm 1990, Chính phủ ban hành Pháp lệnh Ngân hàng, chính thức phân định rõ Ngân hàng Nhà nước với các tổ chức tín dụng thương mại.

Đồng tiền Giải phóng. (Nguồn: Ngân hàng Nhà nước)
Giai đoạn 1991-1996, hệ thống ngân hàng bắt đầu mở rộng tín dụng đến các thành phần kinh tế, xây dựng thị trường tiền tệ sơ khai, thiết lập quan hệ với IMF, WB, ADB. Đến năm 1997, Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật Các tổ chức tín dụng được Quốc hội thông qua, đặt nền móng pháp lý căn bản cho hoạt động ngân hàng hiện đại.
Giai đoạn 2000-2010, ngành ngân hàng tăng trưởng mạnh mẽ, với nhiều tổ chức tín dụng mới ra đời. Tăng trưởng tín dụng bình quân trên 30%/năm nhưng phải đối mặt với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Từ năm 2011, hệ thống ngân hàng bước vào giai đoạn tái cấu trúc toàn diện theo các Quyết định 254 và 843 của Chính phủ nhằm lành mạnh hóa hệ thống tổ chức tín dụng, nâng cao năng lực tài chính và quản trị rủi ro.

Đồng tiền Giải phóng. (Nguồn: Ngân hàng Nhà nước)
Bước sang thế kỷ XXI, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ và trở nên đa dạng hơn. Từ một hệ thống chủ yếu bao gồm các ngân hàng quốc doanh, đến nay đã có sự xuất hiện của các ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh, và các ngân hàng nước ngoài. Một số ngân hàng lớn như Vietcombank, VietinBank, BIDV, MB, Techcombank, VPBank… đã trở thành những tên tuổi nổi bật trong hệ thống ngân hàng quốc gia, đáp ứng nhu cầu tài chính ngày càng đa dạng của nền kinh tế.
Chuyển đổi mạnh mẽ, hướng tới ngân hàng thông minh
Trong vòng 5 năm trở lại đây, ngành ngân hàng Việt Nam đã trải qua một giai đoạn chuyển mình toàn diện, không chỉ để thích ứng với bối cảnh nhiều biến động mà còn để định hình lại vị thế trong nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng Việt Nam đã bước vào một hành trình cải cách có chiều sâu - từ chuyển đổi số, tái cơ cấu, xử lý nợ xấu đến cải thiện chi phí vốn cho nền kinh tế.
Một trong những điểm sáng rõ nét nhất trong giai đoạn 2020-2025 chính là sự chuyển mình mạnh mẽ trong chuyển đổi số. Từ dịch vụ ngân hàng số, ví điện tử, đến ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), tự động hóa quy trình (RPA) đã được tích hợp trong nhiều khâu vận hành, từ thẩm định tín dụng đến chăm sóc khách hàng, góp phần giảm chi phí và tối ưu hiệu quả kinh doanh.
Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, đến giữa năm 2025, hơn 95% giao dịch của khách hàng cá nhân tại các ngân hàng thương mại đã được thực hiện qua kênh số. Ứng dụng ngân hàng số không còn là lựa chọn, mà là xu thế tất yếu, thúc đẩy các ngân hàng đổi mới mô hình kinh doanh và phát triển dịch vụ tài chính toàn diện.

Ngân hàng Nhà nước ngày nay. (Ảnh: PV/Vietnam+)
Nhiều nghiệp vụ cơ bản đã được số hóa hoàn toàn 100% (tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn, mở và sử dụng tài khoản thanh toán, mở thẻ ngân hàng, ví điện tử, chuyển tiền, cho vay...).
Đến nay, có gần 87% người Việt Nam trưởng thành có tài khoản ngân hàng; giá trị thanh toán không dùng tiền mặt gấp 25 lần GDP.
Đặc biệt hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ số của ngành ngân hàng với nhiều phương thức thanh toán hiện đại, được kết nối liên thông, tích hợp liền mạch, xuyên suốt với các ngành, lĩnh vực khác, đem lại nhiều giá trị thiết thực đáp ứng tốt nhu cầu đa dạng của khách hàng. Các dịch vụ trên cổng dịch vụ công quốc gia, dịch vụ dân sinh như thanh toán điện, nước, viễn thông, y tế, giáo dục, hàng hóa trên các sàn thương mại điện tử... trên các nền tảng số đều được đưa lên hoặc kết nối với ứng dụng di động của các ngân hàng, các trung gian thanh toán.


Ngân hàng không còn là nơi đến giao dịch, mà đã trở thành người bạn đồng hành trong từng hành trình sống, học tập, khởi nghiệp và vươn lên của người dân Việt Nam.


Khách hàng sử dụng sinh trắc học. (Ảnh: Vietnam+)
Theo Tiến sỹ Cấn Văn Lực - chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV, chuyển đổi số giúp ngân hàng tiết giảm chi phí, từ đó có thể duy trì mặt bằng lãi suất thấp trong thời gian dài. Ông Lực cho rằng đây là một yếu tố then chốt trong việc hỗ trợ nền kinh tế phục hồi sau dịch và nâng cao khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng.
Cùng quan điểm, ông Phạm Tiến Dũng, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho biết: “Chuyển đổi số không chỉ thay đổi cách vận hành ngân hàng, mà còn thúc đẩy tài chính toàn diện, đưa dịch vụ đến gần hơn với người dân, đặc biệt tại vùng sâu, vùng xa.”
Song song với chuyển đổi số, tái cơ cấu tổ chức tín dụng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm giai đoạn 2021-2025, với nhiều kết quả tích cực. Tỷ lệ nợ xấu nội bảng hiện duy trì dưới mức 2%. Hàng loạt ngân hàng đã cải thiện năng lực tài chính, nâng hệ số an toàn vốn, áp dụng chuẩn mực quốc tế trong quản trị rủi ro.
Về mặt tín dụng, tăng trưởng được điều hành linh hoạt, hướng vào các lĩnh vực ưu tiên như sản xuất, đầu tư công, nông nghiệp công nghệ cao, bất động sản xanh… Năm 2024, tín dụng tăng trên 15,08%, là mức cao nhất kể từ sau đại dịch. Tính đến 26/6/2025, dư nợ toàn hệ thống đạt trên 16,9 triệu tỷ đồng, tăng 8,3% so với cuối năm 2024, trong khi năm 1991 dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng mới chỉ “vỏn vẹn” 10,1 nghìn tỷ đồng.


Tăng trưởng được điều hành linh hoạt, hướng vào các lĩnh vực ưu tiên như sản xuất, đầu tư công, nông nghiệp công nghệ cao, bất động sản xanh. (Ảnh: Vietnam+)
Con số trên đã nói lên tất cả, trong hơn 74 năm qua, đặc biệt trong giai đoạn Đổi mới, ngành Ngân hàng đã cung ứng một lượng vốn khổng lồ không chỉ ngắn hạn mà cả trung, dài hạn cho đầu tư phát triển nền kinh tế, hỗ trợ tăng trưởng, phục vụ hiệu quả tái cấu trúc nền kinh tế trong các thời kỳ.
Dòng vốn đó luôn được điều tiết liều lượng, đến đúng địa chỉ mà nền kinh tế, đất nước đang cần, qua đó đã đóng góp quan trọng tăng trưởng GDP của Việt Nam luôn là một điểm sáng trong bức tranh nhiều gam màu xám của kinh tế toàn cầu trong 5 năm qua.
Giai đoạn 2020-2025 chứng kiến sự bứt phá toàn diện của ngành ngân hàng Việt Nam cả về công nghệ, chính sách điều hành lẫn năng lực tài chính. Trong bối cảnh nền kinh tế đối mặt với nhiều biến động, hệ thống ngân hàng đã thể hiện vai trò trung tâm trong việc dẫn dắt phục hồi và tạo nền tảng cho phát triển bền vững.

Các ngân hàng thương mại đã có nhiều ưu đãi cho lĩnh vực xanh. (Ảnh: Vietnam+)



Nhiều doanh nghiệp được nhận ưu đãi từ dòng vốn tín dụng. (Ảnh: Vietnam+)
Chính sách tín dụng đã được Ngân hàng Nhà nước điều hành theo hướng kiểm soát chất lượng, tránh dồn vốn vào các kênh đầu cơ, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn giá rẻ, phục hồi sản xuất và mở rộng kinh doanh. Mặt bằng lãi suất cho vay liên tục xu hướng giảm, lãi suất cho vay bình quân đối với các giao dịch phát sinh mới của các ngân hàng thương mại trong 6 tháng đầu năm 2025 ở mức 6,29%/năm, giảm 0,64%/năm so với cuối năm 2024, giúp hàng trăm nghìn doanh nghiệp duy trì dòng tiền và việc làm.
Không chỉ đảm bảo dòng vốn được thông suốt, quá trình tái cơ cấu hệ thống tổ chức tín dụng giai đoạn 2016-2020 và tiếp tục trong giai đoạn 2021-2025 theo Quyết định 689/2022 đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Tỷ lệ nợ xấu nội bảng toàn ngành duy trì dưới ngưỡng 2%, phản ánh nỗ lực quyết liệt trong xử lý nợ xấu, củng cố năng lực tài chính và nâng cao quản trị rủi ro của các ngân hàng thương mại. Đáng chú ý, nhiều ngân hàng đã triển khai thành công các tiêu chuẩn Basel II, và một số tiến tới áp dụng Basel III, nâng cao năng lực chống chịu trước các cú sốc thị trường và cải thiện xếp hạng tín nhiệm.

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng. (Ảnh: Vietnam+)
Uy tín của hệ thống ngân hàng không chỉ được ghi nhận ở trong nước mà đã vươn tầm thế giới. Đến năm 2024, 15 ngân hàng Việt Nam đã góp mặt trong top 500 ngân hàng có giá trị thương hiệu cao nhất toàn cầu; Các ngân hàng Việt liên tục được các tổ chức xếp hạng uy tín quốc tế như Moody’s, S&P, Fitch nâng hạng tín nhiệm...
Bà Nguyễn Thị Hồng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khẳng định: "Ngành Ngân hàng Việt Nam đang hướng tới việc hoàn thiện hơn nữa hệ thống ngân hàng, không chỉ đáp ứng yêu cầu trong nước mà còn vươn ra thị trường quốc tế. Chúng tôi tin rằng, với một hệ thống tài chính hiện đại và vững mạnh, Việt Nam sẽ trở thành trung tâm tài chính khu vực trong những năm tới."
Hơn 74 năm đồng hành cùng đất nước, qua chiến tranh, hòa bình, bao cấp, đổi mới và nay là kỷ nguyên số, ngành Ngân hàng vẫn giữ trọn một sứ mệnh – giữ gìn giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, làm điểm tựa vốn vững chắc cho người dân, doanh nghiệp từng bước phát triển kinh tế.
Thế giới và đất nước bước vào kỷ nguyên mới, với nền cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ của chuyển đổi số, ngành Ngân hàng bắt đầu một hành trình mới, tiếp bước truyền thống vẻ vang của 74 năm qua bằng niềm tin và khát vọng phát triển nhanh, bền vững vì một Việt Nam phồn vinh, thịnh vượng và hạnh phúc./.
