Đồng Tháp Mười - 'Thủ đô kháng chiến' của miền Nam

Đúng như đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Xứ ủy Nam bộ trong thời gian này đã nói: 'Cả Nam bộ đều có mặt ở Đồng Tháp Mười'. Do vị trí quan trọng của Đồng Tháp Mười đối với cuộc kháng chiến ở Nam bộ, nên tháng 8-1946 Xứ ủy và Ủy ban Kháng chiến hành chánh Nam bộ còn chủ trương thành lập Ban phòng thủ Đồng Tháp Mười, gồm 8 xã từ kinh Nguyễn Văn Tiếp đến sông Vàm Cỏ Tây và các xã Hậu Thạnh, Nhơn Hòa Lập...

CHUẨN BỊ LỰC LƯỢNG CHỐNG THỰC DÂN PHÁP

Suốt thời gian kháng chiến chống thực dân Pháp, Đồng Tháp Mười được coi là “Thủ đô của cuộc kháng chiến” là “Việt Bắc của miền Nam”, tại Tân An các Lực lượng vũ trang ra đời và phát triển mạnh mẽ thành lập bộ đội, thành lập Cộng hòa vệ binh, tại Mỹ Tho thành lập dân quân cách mạng, Cứu quốc quân, Cộng hòa vệ binh…

Cờ Danh dự Tổ quốc, Ủy ban Hành chính Nam bộ tặng học viên khóa II Trường Quân chính Khu 8 sau Chiến thắng Giồng Dứa năm 1947.

Cách mạng Tháng Tám thành công, dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc để xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Nhưng chưa được bao ngày thì thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam lần thứ hai.

Ngày 23-9-1945, hơn 4.000 quân Pháp núp sau quân Đồng minh mượn danh nghĩa “giải giáp quân Nhật”, nổ súng tại Sài Gòn. Nhân dân Sài Gòn - Gia Định, bằng tình yêu nước, với mọi vũ khí thô sơ đã anh dũng đứng lên chiến đấu.

Trước tình cảnh đất nước còn nhiều khó khăn, phải đối mặt với kẻ thù xâm lược, ngày 25-11-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị “Kháng chiến và kiến quốc”.

Văn kiện quan trọng này đã xác định cách mạng nước ta vẫn là Cách mạng giải phóng dân tộc, kẻ thù chính của Nhân dân ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng.

Sau gần 4 năm (1946 - 1949) đóng tại kinh Ba Tháp - chiến khu Đồng Tháp Mười - Xứ ủy đã được quân và dân nơi đây hết lòng, hết sức, chăm sóc bảo vệ tuyệt đối an toàn.

Đây là một thắng lợi có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bảo đảm cho Xứ ủy tồn tại, hoàn thành trọng trách lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở chiến trường Nam bộ nói chung và trung tâm Đồng Tháp Mười nói riêng.

4 nhiệm vụ của Nhân dân ta lúc này là: Củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống của Nhân dân. Nhiệm vụ bao trùm là củng cố chính quyền.

Để củng cố chính quyền cách mạng lúc này, phải thực hiện đồng thời 2 nhiệm vụ chiến lược là: Quyết tâm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và ra sức xây dựng chế độ mới.

Đến cuối năm 1945, ông Đàm Minh Viễn mang chỉ thị này về tới Nam bộ. Ngày 10-12-1945, tại Bình Hòa Nam bên bờ hữu ngạn sông Vàm Cỏ Đông, Hội nghị Xứ ủy mở rộng quyết định thành lập Ủy ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam do ông Cao Hồng Lãnh làm Chủ tịch; đồng thời chia Nam bộ thành 3 chiến khu: 7, 8, 9, chỉ định Khu bộ trưởng và Chính trị bộ chủ nhiệm từng khu, quyết định xây dựng Tân Uyên, Đồng Tháp Mười, U Minh làm căn cứ địa cho các khu.

Từ tháng 5-1946, do Chiến khu D bị quân Pháp tấn công thường xuyên, cơ quan Khu bộ Khu 7 (do đồng chí Nguyễn Bình làm Khu bộ trưởng) chuyển căn cứ về Vườn Thơm rồi đến Đức Hòa, ven Vàm Cỏ Đông, lập căn cứ tại Đông Thành.

Như vậy, đến giữa năm 1946, Đồng Tháp Mười đã trở thành căn cứ địa các tỉnh: Mỹ Tho, Sa Đéc, Tân An, Khu bộ Khu 7, Khu bộ Khu 8.

Cụm danh từ Chiến khu Đồng Tháp Mười xuất hiện, trở thành trung tâm của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và là căn cứ của Xứ ủy Nam bộ.

Cùng với cuộc kháng chiến ngày một ác liệt ở TP. Sài Gòn, quân và dân Đồng Tháp Mười dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Nam bộ đã tích cực xây dựng củng cố chính quyền, ra sức xây dựng căn cứ địa, xây dựng lực lượng võ trang.

Với tinh thần chủ động và quyết tâm, chỉ trong một thời gian ngắn ở Đồng Tháp Mười một số địa phương đã xây dựng được chính quyền cách mạng từ quận xuống đến làng xã, Quận ủy Cái Bè được thành lập ngày 11-11-1945, Quận ủy Cao Lãnh thành lập tháng 6-1946, UBND các xã Đốc Binh Kiều, Mỹ Quý... cũng lần lượt được thành lập.

Tại kinh Ba Tháp, xã Đốc Binh Kiều và vùng phụ cận, ngoài cơ quan Xứ ủy, Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam bộ, còn có nhiều cơ quan của Nam bộ như: Sở Công an, Sở Quân y, Sở Thông tin, Sở Giáo dục, Nhà in Trần Phú, Đài Phát thanh...

Trường quân chính Khu 8, Phòng Chính trị quân khu đóng ở Gò Tháp, Bờ bao Hội đồng Kiệu, Đường Thét, Ban Quân lương đóng ở Mỹ Quý, Công binh xưởng, Trạm giao liên đóng gần Nhà thờ Lá, kinh Tám Ngàn...

Công tác kết nạp Đảng, đào tạo cán bộ để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo đối với kháng chiến đã được Xứ ủy quan tâm. Trước năm 1945, các xã ở Đồng Tháp Mười có rất ít đảng viên và cơ sở cách mạng.

Đến cuối năm 1946, đã tổ chức được chi bộ ở xã, nhưng số lượng đảng viên ở mỗi xã cũng chỉ có từ 4 - 8 đồng chí.

Đến năm 1948, số lượng đảng viên đã tăng lên nhanh chóng. Xã Mỹ Quý từ 7 tăng lên 32 đảng viên; xã Tháp Mười (Trường Xuân) từ 4 tăng lên 15, rồi tăng lên 80 đảng viên; xã Mỹ An từ 5 tăng lên 17 đảng viên; xã Đốc Binh Kiều cũng từ 5 tăng lên 120 đảng viên; xã Thanh Mỹ từ 5 tăng lên 80 đảng viên.

Các Khu đều lần lượt thành lập các Trường quân chính, ở Khu 8 có Trường quân chính Khu 8 đóng tại Gò Tháp nhằm đào tạo cán bộ tiểu đội, trung đội, đại đội, do đồng chí Nguyễn Văn Quạn, Tham mưu trưởng Khu 8 phụ trách.

CÙNG CẢ NƯỚC TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN

Thực hiện Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19-12-1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Xứ ủy vừa lãnh đạo chiến đấu vừa xây dựng lực lượng.

Quân ta sử dụng đại liên Hốt-Kít ở Cao Lãnh (Đồng Tháp) năm 1948.

Đầu năm 1947, để chống lại âm mưu “chia để trị của thực dân Pháp”, tại căn cứ Đồng Tháp Mười, Hội nghị đại biểu đã bầu ra Ủy ban Mặt trận Việt Minh Nam bộ.

Đến giữa năm 1947, cũng tại Chiến khu Đồng Tháp Mười, Hội nghị thành lập Hội Liên Việt Nam bộ để đoàn kết tất cả các đảng phái yêu nước và đồng bào không đảng phái, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, xu hướng chính trị, chủng tộc.

Đối với nông dân, lực lượng đông đảo nhất của cuộc kháng chiến thì Xứ ủy chủ trương thành lập Hội Nông dân Cứu quốc để tập hợp nông dân theo kháng chiến.

Đồng thời, Xứ ủy còn chủ trương thành lập Liên đoàn Thanh niên Việt Nam ở Nam bộ và Đoàn Phụ nữ Cứu quốc Nam bộ.

Để chống lại âm mưu chia rẽ dân tộc và tạo sức mạnh cho kháng chiến, Xứ ủy phân hóa, lôi kéo lực lượng Bình Xuyên, tranh thủ lực lượng tiến bộ Cao Đài, tín đồ Phật giáo Hòa Hảo, củng cố Hội Phật giáo Cứu quốc Nam bộ, Hội Công giáo Kháng chiến Nam bộ, chủ trương đoàn kết các dân tộc và thu hút trí thức; giúp đỡ sư sãi và trí thức Khmer; thành lập Ban Hoa vận; thành lập Hội Liên hiệp Giải phóng Hoa kiều; tuyên truyền và vận động đồng bào dân tộc thiểu số thành lập những đội quân đánh giặc bằng tên, nỏ, lựu đạn...

Để thu hút nhân sĩ trí thức, Ủy ban Kháng chiến hành chánh Nam bộ ra Chỉ thị 04/NV về chủ trương vận động công chức, nhân viên trong bộ máy cai trị và các sở tư pháp của Pháp yêu cầu họ tham gia đấu tranh hoặc ở tiền tuyến hoặc ở hậu phương và bất hợp tác với chính phủ bù nhìn Lê Văn Hoạch.

Tiếp đó, ngày 21-6-1947, Ủy ban Kháng chiến hành chánh Nam bộ ra Chỉ thị 404/TV bổ sung Chỉ thị 04/NV về công tác vận động và tạo cơ hội cho công chức yêu nước tham gia kháng chiến... thành lập trạm trung chuyển đón tiếp và đưa số công nhân, viên chức này về căn cứ kháng chiến.

Trên tinh thần “tự lực cánh sinh”, Xứ ủy luôn chú trọng việc phát triển tăng gia sản xuất, xây dựng kinh tế, chăm lo giáo dục, sức khỏe Nhân dân và cán bộ, chiến sĩ.

Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Xứ ủy Nam bộ, Chiến khu Đồng Tháp Mười ngày càng được xây dựng vững chắc, lực lượng kháng chiến ngày càng lớn mạnh và quân - dân Đồng Tháp Mười đã tiến hành nhiều trận đánh lớn giành thắng lợi làm tiêu hao nhiều sinh lực địch như: Trận Mộc Hóa ngày 16 đến 18-8-1948; trận Tầm Vu ngày 3-5-1947; trận Cổ Cò ngày 22-1-1947, trận đánh địch trên sông Sở Thượng ngày 21-4-1949 là trận đánh tàu gây tiếng vang lớn.

Nhận thấy căn cứ Đồng Tháp Mười là một trở ngại lớn, đe dọa sự thành bại trong chiến lược “bình định”, từ năm 1948, Bộ Chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Nam bộ đã nhiều lần mở các cuộc càn quét vào vùng căn cứ Đồng Tháp Mười, nhưng chúng đều bị thất bại nặng nề.

Đặc biệt, là cuộc càn lớn ngày 2-6-1949, chúng huy động thủy, lục, không quân, có xe bọc thép lội nước cơ động nhanh, chia nhiều hướng đánh vào trung tâm Đồng Tháp Mười.

Mưu đồ của Pháp là vây bắt, tiêu diệt cơ quan đầu não lãnh đạo kháng chiến Nam bộ, nhưng một lần nữa chúng đã thất bại và bị tổn thất nặng nề, hơn 400 tên giặc phải bỏ xác tại trận.

Sau trận càn nói trên, Xứ ủy nhận định tình hình và quyết định rút về căn cứ U Minh. Việc này hoàn tất trong khoảng thời gian cuối năm 1949.

HỒNG LÊ

(tổng hợp)

Nguồn Đồng Tháp: https://baodongthap.vn/dong-thap-muoi-thu-do-khang-chien-cua-mien-nam-a234297.html