Đồng bào Khmer xã Hòn Đất giữ nghề làm cà om
Toàn ấp Hòn Quéo, xã Hòn Đất (tỉnh An Giang) hiện có khoảng 10 hộ duy trì nghề làm nồi đất. Dẫu nhịp sống có nhiều thay đổi, đồng bào Khmer nơi đây vẫn giữ trọn cách làm thủ công, đồng thời linh hoạt thay đổi mẫu mã, kích cỡ để đáp ứng nhu cầu của người dùng.

Nồi đất thành phẩm đã được nung qua lửa đỏ, đảm bảo bền, đẹp.
Nghề làm nồi đất tại xã Thổ Sơn, nay là xã Hòn Đất đã được UBND tỉnh Kiên Giang (nay là tỉnh An Giang) công nhận là nghề truyền thống năm 2019.
Đồng bào Khmer thường gọi nồi đất là “cà om”, được sử dụng từ bữa cơm gia đình đến những nghi thức sinh hoạt văn hóa. Nồi được dùng để nấu cơm, sắc thuốc, kho cá… giúp giữ trọn hương vị nguyên bản của các món ăn truyền thống.
Nhắc đến nghề làm nồi đất ở xã Hòn Đất, nhiều người dân địa phương nhớ về bà Thị Kim Hường, người phụ nữ Khmer dành cả cuộc đời gắn bó với nghề. Dù bà Hường đã mất hơn 10 năm, nhưng câu chuyện về đôi tay khéo léo và tâm huyết giữ nghề của bà vẫn được người dân nhắc nhớ với sự trân quý.

Đồng bào Khmer xã Hòn Đất tự hào về nghề làm nồi đất truyền thống.
Tiếp nối nghề của bà Hường là chị Danh Thị Mỹ Hằng, cháu nội của bà, ngụ ấp Hòn Quéo. Hơn 12 năm gắn bó với nghề, chị Hằng hiểu rõ sự vất vả để có được những mẻ nồi thành phẩm. Khó khăn nhất hiện nay là nguồn đất sét ngày càng khan hiếm, giá đất tăng khiến chi phí tăng. Dẫu vậy, tình yêu nghề và trách nhiệm với nghề truyền thống của gia đình chính là động lực để chị và các hộ dân bám trụ, không ngừng cải tiến mẫu mã, mở rộng đầu ra cho sản phẩm.

Chị Danh Thị Mỹ Hằng tỉ mỉ với từng công đoạn làm nồi đất.
Chị Hằng kể: “Những năm dịch COVID-19, nồi chất đầy nhà do không bán được. Sau dịch, khách quen quay lại, việc mua bán ổn định hơn. Mỗi ngày, tôi và mẹ làm nồi, còn chồng thì chở hàng giao ở Cần Thơ, TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận”.


Nồi đất đang trong giai đoạn hoàn thiện, chưa được nung qua lửa đỏ.
Để làm ra nồi đất hoàn chỉnh, người thợ thực hiện rất nhiều công đoạn như làm đất, lên khuôn, kéo miệng, dập hông, đập đáy, phơi nắng rồi mới đem nung trong lửa đỏ. Tất cả đều làm thủ công, đòi hỏi sự tỉ mỉ và kinh nghiệm.
Bà Đỗ Thị Kim Diệu có hơn 15 năm gắn bó với nghề cho biết một ngày chỉ làm được khoảng 35 nồi. “Thu nhập không cao nhưng nhờ có nghề mà kinh tế gia đình ổn định. Quan trọng là giữ được nghề truyền thống của ông bà”, bà Diệu chia sẻ.

Với chị Thị Nhu làm nồi đất tuy cực mà vui vì tiếp nối được nghề truyền thống từ ông bà.
Gia đình chị Thị Nhu cũng là một trong những hộ làm nồi đất lâu năm. Ngoài canh tác hơn 20 công lúa, vợ chồng chị vẫn tranh thủ làm nồi đất. Chị Nhu cho biết: “Nghề do bà nội truyền lại. Đất làm nồi phải trộn đúng tỷ lệ 70% đất sét cát, 30% đất sét dẻo; nhào kỹ mới lên khuôn được. Nồi làm xong phơi thật khô rồi nung lửa đỏ mới chắc, bền. Mỗi tháng tôi bán được 300 - 400 cái nồi, thương lái đến tận nhà lấy”.

Mỗi tháng gia đình chị Thị Nhu bán được 300 - 400 nồi đất.
Điều làm nên thương hiệu nồi đất xứ Hòn chính là nguồn đất đặc trưng dẻo, mịn và kết dính tốt. Nhờ vậy, nồi không bị nứt khi nung, giữ nhiệt lâu, bền khi sử dụng. Tuy nhiên, xử lý đất đúng kỹ thuật lại không dễ, đòi hỏi tay nghề và kinh nghiệm được truyền qua nhiều đời. Mỗi chiếc nồi phải được làm chỉn chu, miệng tròn, dáng đẹp thì khách mới ưa chuộng.
Nồi đất có giá bán từ 20.000 - 50.000 đồng/chiếc tùy loại và kích cỡ, chỉ lời khoảng 3.000 - 10.000 đồng/chiếc, mang lại thu nhập ổn định vài triệu đồng mỗi tháng. Bên cạnh giá trị kinh tế, nghề nồi đất mang đến giá trị tinh thần trong đời sống của đồng bào Khmer, càng gắn bó với nghề đồng bào thêm phấn khởi, tự hào vì giữ được nghề truyền thống, góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa trong cộng đồng.
Từ gian bếp quê đến các quán ăn, nhà hàng, nồi đất Hòn Đất ngày càng được ưa chuộng để chế biến các món cơm niêu, gà đốt, cá kho… Giữa nhịp sống hiện đại, những chiếc nồi đất mộc mạc vẫn giữ trọn hương vị quê nhà.































