Dọn đường cho rừng gỗ lớn
Tự chủ nguyên liệu đầu vào, yếu tố quyết định có thể giúp ngành gỗ tuân thủ các tiêu chuẩn Quy định về chống phá rừng của Liên minh Châu Âu( EUDR) sẽ áp dụng từ tháng 12 tới, nhưng việc đảm bảo nguồn cung bền vững cho trung và dài hạn đang phụ thuộc vào chính sách phát triển rừng gỗ lớn hiện nay.
Phát triển rừng gỗ lớn chờ chính sách
Gia đình ông Đinh Văn Giới, dân tộc Bana ở thôn 3, xã Vĩnh Sơn, tỉnh Gia Lai, trồng thêm cây sắn để bù lại phần thu nhập bị giảm khi chuyển đổi diện tích rừng trồng keo, từ 5 năm sang cây gỗ lớn có chu kỳ trên 10 năm.

Rừng gỗ lớn không chỉ cung cấp nguồn nguyên liệu bền vững cho kinh tế xanh, mà còn góp phần điều hòa khí hậu, bảo vệ đất và tạo vành đai sinh thái.
Theo quy định về khuyến lâm, các hộ trồng rừng gỗ lớn được hỗ trợ 500 nghìn đồng/ha/năm, ông Đinh Văn Giới nói rằng ‘mức hỗ trợ này còn thấp quá’, dẫn đến công tác hướng dẫn, kiểm tra, giám sát đôi khi chưa được thực hiện hiệu quả.
“Gia đình vẫn muốn trồng rừng gỗ nhỏ vì sớm được khai thác, trồng rừng gỗ lớn phải rất lâu mới có tiền”, ông Giới vừa chia sẻ với người viết vừa chỉ về phía Tây, nơi rừng gỗ lớn của gia đình liên kết với Công ty Lâm nghiệp Sông Kôn được trồng cách đây 4 năm, nhẩm tính hơn 7 năm nữa mới có thể khai thác.
Tỉnh Gia Lai, sau hợp nhất với Bình Định, vẫn giữ mục tiêu phát triển rừng gỗ lớn với kỳ vọng mang lại kinh tế cho địa phương và giảm tác động tiêu cực lên môi trường tự nhiên. Thế nhưng, mức hỗ trợ khoảng 500 nghìn đồng/hộ mỗi tháng, khiến nhiều gia đình lo ngại khó khăn sẽ kéo dài đến năm 2027, khi rừng gỗ lớn cho phép khai thác.

Ông Đinh Văn Giới, hộ trồng rừng xã Vĩnh Sơn, tỉnh Gia Lai.
Tháng trước, Bộ Nông nghiệp và Môi trường công bố số liệu cho thấy, giá trị nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ nửa đầu năm 2025 đạt 1,52 tỷ USD, tăng 19,9% so với cùng kỳ năm 2024. Mức tăng này cao hơn nhiều so với dự báo cho thấy tự chủ nguyên liệu trong nước rất xa kỳ vọng, trong khi tổng diện tích rừng cả nước có thể khai thác chỉ khoảng 4 triệu ha.
Tương tự nhiều địa phương, trồng rừng gỗ lớn tại Gia Lai đang “có nhiều cái khó”, như chia sẻ của ông Hồ Văn Hể, Giám đốc công ty Lâm nghiệp Sông Kôn. Ông Hể cho biết khó khăn lớn nhất là đất canh tác, kế đến là vốn đầu tư lớn và thời gian trồng dài, trên 10 năm với cây keo và 60-70 năm với các dòng gỗ bản địa, như lim xanh.

Ông Hồ Văn Hể, Giám đốc Công ty Lâm nghiệp Sông Kôn, giới thiệu mô hình chuyển hóa rừng, từ chu kỳ ngắn 5 năm sang cây gỗ lớn hơn 10 năm, đồng thời thử nghiệm trồng lim xanh có chu kỳ lên tới 60-70 năm.
Kế hoạch Phát triển rừng trồng sản xuất gỗ lớn giai đoạn 2024 - 2030 của Chính phủ dự kiến, nâng diện tích rừng gỗ lớn lên 1 triệu hecta vào năm 2030. Nhưng đến nay, theo ông Hể, “nhiều chính sách hỗ trợ phát triển rừng gỗ lớn vẫn chưa được thực hiện”.
Xuất khẩu đồ gỗ có thể tăng trưởng chậm lại
Ngành gỗ Việt Nam đang phát triển theo hai tốc độ, công nghiệp chế biến mạnh nhưng tự chủ nguyên liệu còn yếu. Việt Nam là nguồn cung lớn thứ hai châu Á (sau Trung Quốc) ra thị trường thế giới, nhưng chỉ tự chủ được hơn 60% nguyên liệu, theo ước tính của Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (VIFOREST).
Những phân tích mới nhất của Tổ chức Forest Trends (Mỹ) và các hiệp hội gỗ Việt Nam cho thấy sự mất cân đối trong nguồn nguyên liệu bắt nguồn từ chính sách ưu tiên xuất khẩu nhưng chưa chú trọng đến tự chủ nguyên liệu từ rừng trồng, đặc biệt là rừng gỗ lớn có chứng chỉ FSC.
Các báo cáo cũng chỉ ra những tồn tại không được xử lý, dẫn đến tình trạng phụ thuộc nguyên liệu sản xuất. Sản lượng gỗ rừng trồng khai thác trong năm 2024 của Việt Nam đạt 23,334 triệu m3, tăng 7,9% so với năm 2023, không đủ đáp ứng cho chế biến đồ gỗ xuất khẩu và tiêu dùng trong nước.
Việt Nam trong nhiều năm đã phải chi lượng lớn ngoại tệ để mua gỗ nguyên liệu, tập trung vào các vùng địa lý tích cực. Năm 2024, kim ngạch nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam đạt trên 2,81 tỷ USD, tăng 28,1% so với năm 2023, theo VIFOREST.

Rừng gỗ lớn là nền tảng cho chuỗi cung ứng gỗ minh bạch, giảm áp lực nhập khẩu và bảo vệ môi trường sống.
Các nhà nghiên cứu đã kiến nghị Chính phủ tập trung hơn vào rừng gỗ lớn, tăng mức hỗ trợ cho các công ty lâm nghiệp và hộ trồng rừng. Nếu không, xuất khẩu gỗ có thể tăng trưởng chậm thời gian tới do không đáp ứng được các yêu cầu về chuẩn hóa chuỗi cung ứng.
Thời điểm này, cạnh tranh gay gắt giành đơn hàng quốc tế, vốn đã sụt giảm do căng thẳng thương mại, khiến lợi nhuận ngành gỗ bị "bóp nghẹt", kéo giá sản xuất xuống thấp ngay cả khi khối lượng xuất khẩu tăng. Nhiều công ty lâm nghiệp cho biết đang phải thắt chặt chi tiêu để hỗ trợ phía sản xuất.
Tình trạng chậm thanh toán hợp đồng xuất khẩu đồ gỗ tăng mạnh kể từ ngày 2.4, khi Tổng thống Mỹ thông báo sẽ điều chỉnh thuế nhập khẩu hàng hóa, đặc biệt là nông và lâm sản. Việc này, gây áp lực lên các công ty lâm nghiệp, khiến họ gặp khó khăn nếu nâng mức hỗ trợ cho các hộ trồng rừng.
Năm 2025, ngành gỗ và lâm sản Việt Nam đặt mục tiêu xuất khẩu 18 tỷ USD, cao hơn tổng kim ngạch xuất khẩu 16,25 tỷ USD của năm 2024. Lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường trong một hội nghị hồi tháng 5 thừa nhận ‘cần chiến lược mới’ về phát triển vùng nguyên liệu gỗ lớn, có mã số vùng trồng và chứng chỉ FSC.
Ông Nguyễn Quốc Trị, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường, khi đó đã nói rằng: “Những chiến lược này nhằm hỗ trợ ngành gỗ, vốn dựa nhiều vào xuất khẩu, có thể giảm rủi ro liên quan đến nguyên liệu đầu vào, tránh tình trạng gỗ từ nước khác vào Việt Nam, sau đó xuất khẩu”.

Anh Lê Thiện Đức, chuyên gia lâm nghiệp dự án SFM, hướng dẫn hộ trồng rừng kỹ thuật tỉa cảnh, phát triển cây gỗ lớn.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường đặt mục tiêu nâng cao năng suất rừng trồng, trung bình đạt 20 m3/ha/năm vào năm 2025 và 22m3/ha/năm vào năm 2030. Cơ quan này cũng đề xuất tăng giá trị thu nhập từ rừng trồng sản xuất bình quân khoảng 1,5 - 2 lần/đơn vị diện tích, so với năm 2020.
Đề xuất xây dựng chiến lược mới của Bộ Nông nghiệp và Môi trường là một phần quan trọng trong phát triển rừng gỗ lớn, rộng hơn và có chủ đích hơn để đạt được mục tiêu 1 triệu ha rừng gỗ lớn vào năm 2030 theo Kế hoạch "Phát triển rừng trồng sản xuất gỗ lớn giai đoạn 2024 - 2030". Tuy nhiên, chính sách và cơ chế thực hiện của đề xuất này cần rõ ràng và cụ thể hơn nữa.
Từ áp lực EUDR và thuế quan Mỹ đến bài toán tự chủ nguyên liệu
Sự ổn định về nguyên liệu của Việt Nam ngày càng quan trọng đối với thương mại gỗ toàn cầu, với tư cách là nguồn cung lớn thứ hai châu Á, sau Trung Quốc. Việc đáp ứng các quy định kỹ thuật của EUDR kể từ tháng 12.2025, hay tuân thủ quá trình điều tra từ 3.2025 của Mỹ theo mục 232, Đạo luật Thương mại mở rộng năm 1962, là đặc biệt cần thiết.
Tái cấu trúc chuỗi sản xuất gỗ và sản phẩm gỗ, từ phát triển vùng nguyên liệu đến chế biến và xuất khẩu, không phải chuyện có thể làm trong “ngày một, ngày hai”. Nhưng kết quả Dự án SFM do Chính phủ Đức tài trợ từ năm 2022 đã chứng minh, Việt Nam có thể tăng diện tích rừng gỗ lớn một cách bền vững nếu có chính sách hỗ trợ tốt, sự ủng hộ của doanh nghiệp và người trồng rừng.

Công ty Lâm nghiệp Quy Nhơn - một trong những doanh nghiệp được dự án SFM hỗ trợ kỹ thuật – sử dụng công nghệ bay trong công tác bảo vệ rừng gỗ lớn.
Công ty Lâm nghiệp Quy Nhơn, một trong những doanh nghiệp được dự án SFM hỗ trợ phát 4 héc ta rừng gỗ lớn, dự kiến mở rộng quy mô rừng gỗ lớn từ nay đến 2030. Ông Ngô Văn Tỉnh, Giám đốc Công ty Lâm nghiệp Quy Nhơn, cho biết trồng rừng gỗ lớn mang lại “giá trị cao hơn” so với rừng gỗ nhỏ.
“Các công ty chế biến đồ gỗ xuất khẩu có nhu cầu rất lớn, thị trường không có gỗ lớn để bán”, ông Ngô Văn Tỉnh nói. Thời điểm này, giá bán cây gỗ lớn lên tới 1,8-1,9 triệu đồng/tấn, nhưng cây gỗ nhỏ chỉ từ 1,3-1,5 triệu đồng/tấn.
Theo bà Carina Van Weelden, Quản lý dự án SFM, dự án được thiết kế theo hướng nhân rộng diện tích rừng gỗ lớn có chứng chỉ và gắn với quản lý rừng bền vững, vốn là những yếu tố quan trọng có thể giúp Việt Nam minh bạch chuỗi sản xuất và giảm phụ thuộc nhập khẩu nguyên liệu.

Mô hình rừng trồng hỗn giao sẽ giúp cải thiện chất lượng đất, tăng khả năng chống chịu của rừng với sâu bệnh và giảm xói mòn.
Để mang lại hiệu quả cao hơn, bà Carina Van Weelden khuyến cáo: “Quản lý rừng bền vững có thể thực hiện với mô hình trồng rừng hỗn giao, thay vì chỉ trồng thuần loài”. Bà tin rằng mô hình rừng trồng hỗn giao sẽ giúp cải thiện chất lượng đất, tăng khả năng chống chịu của rừng với sâu bệnh và giảm xói mòn.
Như vậy, Việt Nam không có lựa chọn nào khác ngoài việc đối mặt trực tiếp với những tác động của chuỗi thương mại gỗ đang rối loạn, bởi cạnh tranh và thuế quan. Tự chủ nguyên liệu trong nước đóng vai trò lớn xác định vị thế một nguồn cung bền vững trong chuỗi thương mại gỗ toàn cầu.
Tiềm năng của rừng gỗ lớn
Theo nghiên cứu của các chuyên gia Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, trên cơ sở áp dụng phương pháp của Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC), lượng CO2 được hấp thụ bởi rừng nghèo khoảng 30 - 140 tấn/ha, rừng trung bình trong khoảng 175 - 320 tấn/ha và rừng giàu trong khoảng 480 - 1.000 tấn/ha. Ngoài ra, rừng nguyên sinh có khả năng lưu giữ C02 nhiều hơn khoảng 60% so với rừng trồng. Để thu hẹp khoảng cách này, các nhà khoa học khuyến cáo người dân tăng cường trồng rừng gỗ lớn.
Mỗi tín chỉ các bon được xác nhận là 1 tấn CO2, hoặc các loại khí nhà kính khác (CH4, N2O...) quy đổi ra 1 tấn CO2. Hiện có 46 quốc gia và 35 vùng lãnh thổ đã lên kế hoạch áp dụng công cụ định giá các bon, với tổng lượng khí nhà kính được kiểm soát 12 tỷ tấn CO2 tương đương, chiếm hơn 20% tổng lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu. Đây là hướng đi tiềm năng cho ngành lâm nghiệp Việt Nam, bởi nguồn thu từ thị trường này trên toàn cầu lên tới hàng chục tỷ USD.
_______________
Năm 2024, ngành gỗ đã chi gần 2,4 tỷ USD nhập khẩu gỗ nguyên liệu, con số này có thể tiếp tục tăng lên trong năm 2025 để đạt mục tiêu xuất khẩu 18 tỷ USD.
Bên cạnh đó, Việt Nam với quy mô dân số hơn 100 triệu dân, tốc độ đô thị hóa nhanh, mỗi năm có tới 70-80 triệu m2 nhà mới được xây dựng, nhu cầu về tiêu dùng các sản phẩm nội thất tại thị trường nội địa được ghi nhận có mức tăng trưởng tốt.
Theo Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (VIFOREST)
Bài và ảnh: Hải Vân