Đón điểm tựa cho tư nhân tham gia Dự án Đường sắt tốc độ cao

Những cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt về tài chính là đòn bẩy quan trọng để các doanh nghiệp trong nước đảm nhận được sứ mệnh lịch sử mang tên Dự án Đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam.

Hiện đang có một số nhà đầu tư trong nước đề xuất được đầu tư Dự án Đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam

Hiện đang có một số nhà đầu tư trong nước đề xuất được đầu tư Dự án Đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam

Đòn bẩy tài chính

Sau gần 2 tháng rốt ráo triển khai, cuối tuần qua, Bộ Xây dựng đã có Tờ trình số 140/TTr-BXD gửi Chính phủ Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt áp dụng cho Dự án Đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam.

Theo Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trần Hồng Minh, dự thảo Nghị quyết gồm 11 điều chia làm các nội dung chính: phần nội dung quy định các cơ chế, chính sách áp dụng chung cho cả 3 hình thức đầu tư công, phương thức PPP, đầu tư kinh doanh từ Điều 1 đến Điều 6; phần quy định áp dụng cho đầu tư kinh doanh tại Điều 7; phần quy định áp dụng cho phương thức PPP tại Điều 8; quy định về miễn, giảm, trừ trách nhiệm tại Điều 9; tổ chức thực hiện tại Điều 10 và hiệu lực thi hành tại Điều 11.

Do hiện nay, Dự án vẫn đang triển khai nghiên cứu đầu tư theo hình thức đầu tư công, chưa chuyển đổi hình thức đầu tư từ đầu tư công sang đầu tư kinh doanh hoặc đầu tư theo phương thức PPP hoặc đầu tư theo hình thức hỗn hợp nên nội dung này sẽ bảo đảm tính tổng thể của dự thảo Nghị quyết là quy định chung các cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt áp dụng cho Dự án.

Trước đó, thực hiện ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo Chính phủ, vào đầu tháng 7/2025, Bộ Xây dựng đã thành lập Tổ soạn thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt áp dụng cho Dự án.

Tổ soạn thảo gồm 22 thành viên, trong đó nhiều thành viên là lãnh đạo các bộ, ngành liên quan trực tiếp như: Tài chính, Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước, Quốc phòng, Công an... đã họp cho ý kiến về Dự thảo Nghị quyết vào ngày 7/11/2025.

“Trường hợp Chính phủ lựa chọn hình thức đầu tư nào sẽ áp dụng các điều khoản tương đương trong dự thảo Nghị quyết”, Bộ trưởng Bộ Xây dựng cho biết.

Hiện nay, Kỳ họp thứ mười, Quốc hội khóa XV đang diễn ra nên để giải quyết ngay vấn đề cấp bách, vướng mắc, bất cập phát sinh từ thực tiễn, Bộ Xây dựng kiến nghị Chính phủ xem xét, chấp thuận dự thảo Nghị quyết được áp dụng khoản 2 Điều 26 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Bên cạnh đó, do Dự án đang trong quá trình tổ chức lập Báo cáo nghiên cứu khả thi; một số chính sách liên quan đến lĩnh vực tài chính, tín dụng, thuế sẽ ảnh hưởng lớn đến kinh tế vĩ mô, tăng gánh nặng ngân sách, ảnh hưởng an toàn tài khóa và các chỉ tiêu nợ công…

“Vì vậy, Bộ Xây dựng kiến nghị Chính phủ giao các bộ, ngành liên quan tiếp tục thực hiện đánh giá kỹ lưỡng làm cơ sở xem xét, quyết định đối với các nội dung liên quan đến chính sách hỗ trợ tài chính, thuế và báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định”, Tờ trình số 140 nêu rõ.

Tại Tờ trình số 140, Bộ Xây dựng đã dành khá nhiều thời lượng để làm rõ các chính sách hỗ trợ tài chính, trong đó có chính sách ngân sách nhà nước cho vay tối đa không quá 80% tổng mức đầu tư trong trường hợp Dự án thực hiện theo hình thức đầu tư kinh doanh.

Theo Bộ Xây dựng, tổng hợp kinh nghiệm quốc tế cho thấy đến nay chưa ghi nhận được thông tin về trường hợp đầu tư tư nhân toàn bộ dự án đường sắt tốc độ cao có quy mô tương tự như tuyến đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam mà có thể thu hồi vốn và đạt lợi nhuận nếu không có sự hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước.

Như vậy, kinh nghiệm quốc tế cho thấy để tư nhân tham gia đầu tư tuyến đường sắt tốc độ cao cần có sự hỗ trợ về mặt tài chính của Nhà nước để Dự án tăng tính khả thi.

Bên cạnh đó, kết quả tính toán về hiệu quả tài chính tại Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án cho thấy, trường hợp nhà đầu tư đầu tư toàn bộ Dự án thì không thể thu hồi vốn; trường hợp nhà đầu tư thực hiện đầu tư đầu máy, toa xe, thiết bị để vận hành, với dự kiến dự báo nhu cầu vận tải trong Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, kỳ vọng thời gian hoàn vốn khoảng 34 năm; nếu doanh thu giảm 5% so với dự báo thì thời gian hoàn vốn khoảng 41 - 18 năm.

Sau khi Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị được ban hành, Chính phủ, Bộ Xây dựng nhận được đề xuất dự án của một số nhà đầu tư tư nhân trong nước đề nghị đầu tư theo hình thức đầu tư kinh doanh.

Để tăng tính khả thi, các nhà đầu tư đề nghị cho vay từ ngân sách nhà nước với hạn mức vay 80% tổng mức đầu tư (không bao gồm giải phóng mặt bằng), lãi suất 0% trong vòng 30 năm; 20% số vốn còn lại nhà đầu tư tự huy động.

Theo quan điểm của đơn vị chủ trì soạn thảo Dự thảo Nghị quyết, xét về bản chất, đối với hình thức đầu tư công, tài sản hình thành sau đầu tư là tài sản của Nhà nước; đối với hình thức đầu tư PPP là sự kết hợp đầu tư giữa Nhà nước và nhà đầu tư cùng thực hiện đầu tư dự án, tài sản hình thành sau đầu tư là tài sản của Nhà nước, nhà đầu tư được quyền khai thác tài sản của Nhà nước trong thời gian nhất định theo phương án tài chính trong hợp đồng dự án; đối với hình thức đầu tư kinh doanh do nhà đầu tư thực hiện đầu tư dự án và tài sản hình thành sau đầu tư là tài sản của tư nhân.

“Đối với Dự án Đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, trường hợp Nhà nước cho nhà đầu tư vay, sau khi nhà đầu tư hoàn thành nghĩa vụ trả nợ cho Nhà nước thì công trình thuộc quyền sở hữu của nhà đầu tư. Trong thời gian trả nợ (dự kiến 30 năm) thì tài sản hình thành sau đầu tư là tài sản của nhà đầu tư thế chấp cho Nhà nước”, lãnh đạo Bộ Xây dựng nhấn mạnh.

Minh định cơ chế lãi suất tối thiểu bằng 0%

Được biết, tại Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt áp dụng cho Dự án Đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam, Bộ Xây dựng đề xuất trường hợp đầu tư theo hình thức đầu tư kinh doanh, Chính phủ được sử dụng ngân sách nhà nước cho nhà đầu tư vay tối đa không quá 80% tổng mức đầu tư Dự án được phê duyệt với lãi suất tối thiểu bằng 0% trong thời hạn không quá 30 năm kể từ ngày giải ngân khoản vay.

Trong vòng 30 năm kể từ thời điểm bắt đầu được giải ngân, nhà đầu tư có trách nhiệm hoàn thành hoàn trả các khoản vay tương ứng cho Nhà nước.

Bộ Xây dựng cho biết trong quá trình xây dựng Dự thảo Nghị quyết, cơ quan chủ trì soạn thảo nhận được một số ý kiến liên quan đến nội dung này.

Theo đó, có ý kiến cho rằng, đề xuất Chính phủ vay về cho chủ dự án vay lại với lãi suất bằng 0% trong thời hạn (không quá) 30 năm tương đương với việc Chính phủ phải đứng ra trả lãi suất cho khoản vay sẽ làm gia tăng chỉ tiêu nghĩa vụ trả nợ lãi trực tiếp của Chính phủ/tổng thu ngân sách nhà nước, có khả năng vượt trần, làm ảnh hưởng tiêu cực đến xếp hạng tín nhiệm quốc gia.

Thêm vào đó, lãi suất 0% làm suy yếu khả năng hoàn vốn và giảm động lực trả nợ của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp không có áp lực trả nợ (vì ngân sách nhà nước trả nợ lãi) sẽ dẫn tới ngân sách nhà nước khó thu hồi được nợ, không phù hợp với nguyên tắc quản lý nợ theo hướng thị trường.

Theo Bộ Xây dựng, trong quá trình nghiên cứu, các đơn vị chức năng đã thử chạy phương án cho vay như sau: năm thứ nhất 15% tổng mức đầu tư (7,362 tỷ USD); năm thứ hai đến năm thứ tư, mỗi năm là 20% tổng mức đầu tư (9,816 tỷ USD/năm); năm thứ năm là 25% tổng mức đầu tư (12,27 tỷ USD).

Kết quả cho thấy, với lãi suất vay ưu đãi 1% thì đến năm thứ 30, tổng giá trị khoản vay bao gồm cả lãi vay khoảng 64 tỷ USD; lãi suất ưu đãi 5% thì tổng giá trị khoản vay bao gồm cả lãi vay khoảng 182 tỷ USD, nhưng sau 30 năm, Nhà nước chỉ thu về khoảng 49 tỷ USD.

Điều đáng nói là tính toán nói trên còn chưa xét đến các rủi ro ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của Dự án (tăng tổng mức đầu tư), chưa có các số liệu để đánh giá tác động của chính sách đến kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước (chỉ tiêu nghĩa vụ trả nợ lãi trực tiếp của Chính phủ/tổng thu ngân sách Nhà nước, trần nợ công…).

Vì vậy, Bộ Xây dựng cũng cho rằng, đây là chính sách cần được xem xét thận trọng, kỹ lưỡng. Tuy nhiên, do không có chức năng chuyên môn, nên Bộ Xây dựng kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính tiếp tục thực hiện đánh giá tác động của chính sách này.

Một điểm rất đáng chú ý là tại Dự thảo Nghị quyết, Bộ Xây dựng đề xuất không đưa chính sách về việc nhà nước bảo lãnh khoản vay 80% của nhà đầu tư từ các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước vào Dự thảo Nghị quyết do không có tính khả thi và tiềm ẩn nhiều rủi ro.

Theo Bộ Xây dựng, các cơ chế, chính sách được đưa vào Dự thảo Nghị quyết là các cơ chế lớn, liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, ảnh hưởng đến kinh tế vĩ mô, phát triển công nghiệp, đô thị của đất nước, trong điều kiện các cán bộ, công chức tham gia xây dựng Dự thảo Nghị quyết chưa có nhiều thông tin, Dự án có quy mô đặc biệt lớn, kỹ thuật phức tạp nên chưa thể lường hết các tác động.

Để bảo vệ cán bộ, công chức, viên chức dám nghĩ, dám làm, dám đề xuất chính sách để tháo gỡ “điểm nghẽn” về thể chế như tinh thần Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025, Bộ Xây dựng đề xuất đưa vào Dự thảo Nghị quyết chính sách loại trừ, miễn, giảm trách nhiệm đối với cán bộ, công chức.

“Cụ thể, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, cán bộ, công chức, viên chức tham gia xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách quy định tại Nghị quyết này và tham gia quá trình chuyển đổi hình thức đầu tư, lựa chọn nhà đầu tư được xem xét loại trừ, miễn, giảm trách nhiệm theo quy định pháp luật”, Tờ trình số 140 nêu rõ.

Anh Minh

Nguồn Đầu Tư: https://baodautu.vn/don-diem-tua-cho-tu-nhan-tham-gia-du-an-duong-sat-toc-do-cao-d435580.html