Đổi mới sáng tạo trong công nghiệp để bứt phá tăng trưởng xanh
Trong bối cảnh công nghiệp Việt Nam chiếm gần một nửa tổng tiêu thụ năng lượng quốc gia, việc chuyển đổi sang mô hình sản xuất xanh, tiết kiệm năng lượng là yêu cầu cấp thiết. Nhiều doanh nghiệp 'Make in Vietnam' đã và đang mở lối, song để biến tiềm năng thành hiện thực, cần sự chung tay từ chính sách, nguồn vốn và công nghệ.
Doanh nghiệp "Make in Vietnam" chuyển đổi kinh tế xanh
Trong nhiều năm, ngành công nghiệp chiếu sáng đối mặt với thách thức lớn về môi trường. Những bóng đèn huỳnh quang chứa thủy ngân, các dây chuyền sản xuất tiêu thụ điện năng lớn và lượng rác thải công nghiệp khổng lồ là những vấn đề mà nhiều doanh nghiệp chưa thể giải quyết triệt để.
Nhưng tại Công ty cổ phần Bóng đèn phích nước Rạng Đông, một chiến lược sản xuất xanh đã được triển khai mạnh mẽ. Công ty đã tiên phong loại bỏ hoàn toàn thủy ngân trong các sản phẩm chiếu sáng, thay thế bằng công nghệ LED không chứa chì, không phát tia UV, bảo đảm an toàn cho sức khỏe con người và môi trường.

Dây chuyền sản xuất bóng đèn của Rạng Đông.
Là đơn vị "Make in Vietnam" tiên phong trong sản xuất thiết bị điện, dụng cụ chiếu sáng, Rạng Đông đã chủ động tham gia chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng trong sản xuất thiết bị chiếu sáng, giảm thiểu điện năng tiêu thụ để bảo vệ môi trường.

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng, Rạng Đông xác định con đường phát triển bền vững không chỉ là xu hướng mà còn là trách nhiệm.
Công ty đã triển khai chiến lược "xanh hóa sản xuất", đặt mục tiêu giảm 30% lượng khí thải carbon vào năm 2030 và hướng tới phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Doanh nghiệp cũng đã dành 20% lợi nhuận trước thuế hàng năm trong 1 thập kỷ để đầu tư nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng trong sản xuất..

Ông Nguyễn Đoàn Kết, Phó Chủ tịch Hội đồng Quản trị, Phó Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Bóng đèn phích nước Rạng Đông.
Thí dụ, để tạo ra cường độ ánh sáng tương đương 1.200 lumen, trước đây phải dùng nguồn sáng tiêu tốn đến 100W điện năng. Nay, với công nghệ LED, chỉ cần 5W là đủ, tức tiết kiệm hơn 90% năng lượng. Đặc biệt, khi được tích hợp công nghệ thông minh, đèn LED còn có thể giảm thêm khoảng 50% mức tiêu thụ điện.
Ông Nguyễn Đoàn Kết
Phó Chủ tịch Hội đồng Quản trị,
Phó Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Bóng đèn phích nước Rạng Đông
Rạng Đông đã đặt mục tiêu đến năm 2025 hoàn thành chuyển đổi số khối sản xuất thực với 70-80% dữ liệu được kết nối, tự động xử lý, phân tích trong hệ thống thống nhất; năm 2030 hoàn thành nhà máy thông minh; chuyển từ mô hình kinh doanh truyền thống sang mô hình kinh doanh mới, cung cấp sản phẩm và dịch vụ Hệ sinh thái LED 4.0, trọn gói và đồng bộ trên các nền tảng số và thương mại điện tử, phát triển hệ sinh thái kinh doanh sáng tạo…
Ông Nguyễn Đoàn Kết, Phó Chủ tịch Hội đồng Quản trị, Phó Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Bóng đèn phích nước Rạng Đông chia sẻ: "Hiện nay, chúng tôi đang triển khai chương trình chuyển đổi kép: Chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và chuyển đổi năng lượng. Trong chuyển đổi số, doanh nghiệp tập trung ứng dụng thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để tái cấu trúc chiến lược sản phẩm, hệ thống sản xuất, mô hình kinh doanh và cả mô hình điều hành".
"Thí dụ, để tạo ra cường độ ánh sáng tương đương 1200 lumen, trước đây phải dùng nguồn sáng tiêu tốn đến 100W điện năng. Nay, với công nghệ LED, chỉ cần 5W là đủ, tức tiết kiệm hơn 90% năng lượng. Đặc biệt, khi được tích hợp công nghệ thông minh, đèn LED còn có thể giảm thêm khoảng 50% mức tiêu thụ điện", ông Nguyễn Đoàn Kết chỉ rõ.
Việc hình thành xu hướng nhà máy xanh đang dần trở nên thiết yếu trong bối cảnh quá trình công nghiệp hóa và sự bùng nổ của các hoạt động thương mại dịch vụ gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường.
Xây dựng và thiết lập hệ thống nhà máy xanh được coi là một trong những bước chuyển mình quan trọng đối với các doanh nghiệp sản xuất tại Việt Nam để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu phát triển bền vững,Thạc sĩ Lê Ngọc Anh, Giám đốc dữ liệu, Viện Dầu khí Việt Nam đánh giá:"Thực tế, nguồn lực của chúng ta có hạn, trong khi mục tiêu là tăng trưởng xanh toàn diện. Do đó, chúng tôi cho rằng cần có trọng tâm trong giải pháp. Một trong những trọng tâm hàng đầu chính là ưu tiên cho ngành năng lượng, bởi đây là lĩnh vực cốt lõi của nền kinh tế. Năng lượng không chỉ quyết định sự phát triển chung, mà còn là yêu cầu bắt buộc đối với nhiều ngành công nghiệp liên quan, vốn đòi hỏi nguồn năng lượng sạch và các chứng chỉ bền vững để phát triển lâu dài. Vì vậy, đầu tư thông minh nhất chính là đầu tư vào năng lượng xanh và tài chính cho năng lượng xanh".

Công nghiệp xanh: Xu hướng tất yếu trong kỷ nguyên mới
Ngành công nghiệp Việt Nam, bao gồm chế biến thực phẩm và công nghiệp hỗ trợ, hiện chiếm đến 47% tổng tiêu thụ năng lượng quốc gia. Vì vậy, việc tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường và chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng xanh là hết sức cần thiết, cấp bách trong bối cảnh hiện nay.
Tuy nhiên, nguồn lực tài chính huy động để thực hiện cho các hoạt động này vẫn còn thấp so nhu cầu thực tế. Nhiều ngành công nghiệp đang gặp nhiều khó khăn trong áp dụng các giải pháp tiết kiệm năng lượng do hạn chế về tài chính, kỹ thuật, năng lực kiểm toán mức tiêu thụ năng lượng…
Theo nhiều chuyên gia, tiềm năng tiết kiệm năng lượng trong ngành công nghiệp có thể đạt từ 20-30%, nhưng để tiềm năng trở thành hiện thực thì sẽ phải triển khai rất nhiều công việc, trong đó nguồn vốn sẽ đóng vai trò then chốt..
Tiến sĩHà Huy Ngọc, Phòng Kinh tế vùng, Viện Kinh tế Việt Namnhận định: "Về huy động nguồn lực, có thể nói đây từng là một trong những rào cản lớn của giai đoạn trước, khi chúng ta chưa xây dựng được ngân sách riêng cho tăng trưởng xanh. Thay vào đó, mục tiêu này mới chỉ được lồng ghép trong các chương trình ứng phó biến đổi khí hậu. Bước sang giai đoạn 2021-2030, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang nỗ lực huy động các nguồn lực, đặc biệt là tín dụng xanh và trái phiếu xanh".

Để hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững là động lực then chốt để thúc đẩy tăng trưởng, thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách quan trọng như Nghị quyết số 57-NQ/TW về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; Nghị quyết số 68-NQ/TW coi khu vực kinh tế tư nhân là lực lượng tiên phong trong phát triển công nghệ, chuyển đổi xanh và kinh tế tuần hoàn.
Không chỉ dừng lại ở định hướng chính sách, Việt Nam còn triển khai nhiều chiến lược dài hạn và chương trình cụ thể. Có thể kể đến Chiến lược tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu đến năm 2050, cùng các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp khu vực tư nhân phát triển bền vững.
Song song, các sáng kiến hợp tác quốc tế như ESG 2025, Inclusive Business Hub hay Social Impact Pathway cũng đang được thúc đẩy mạnh mẽ, mở ra cơ hội kết nối, chia sẻ kinh nghiệm và nâng cao năng lực cho cộng đồng doanh nghiệp.
Theo Bộ Tài chính, để hỗ trợ nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển bền vững, cần 4 nhóm giải pháp trọng tâm:
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế, chính sách nhằm khuyến khích doanh nghiệp ứng dụng khoa học công nghệ, đẩy mạnh chuyển đổi số và chuyển đổi xanh. Đây là nền tảng giúp tạo ra môi trường pháp lý minh bạch, công bằng, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp và nhà đầu tư.
Thứ hai, tập trung mở rộng tín dụng ưu đãi để doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận vốn cho các dự án công nghệ số, năng lượng tái tạo và mô hình kinh doanh tuần hoàn. Các gói tín dụng xanh, tín dụng chuyển đổi số, kết hợp với bảo lãnh tín dụng của Nhà nước sẽ giúp giảm bớt áp lực tài chính, đặc biệt với doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Thứ ba, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, gắn với xây dựng mạng lưới chuyên gia tư vấn hỗ trợ doanh nghiệp trong hoạch định chiến lược, áp dụng công nghệ xanh và đánh giá tác động môi trường-xã hội. Đây là giải pháp nâng cao năng lực quản trị mà còn là chìa khóa để doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường quốc tế.
Thứ tư, triển khai chương trình phát triển tối thiểu 1.000 doanh nghiệp tiên phong trong các lĩnh vực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp công nghệ cao. Đây sẽ là lực lượng nòng cốt, không chỉ dẫn dắt quá trình chuyển đổi số và xanh hóa nền kinh tế mà còn lan tỏa mô hình phát triển bền vững ra toàn cộng đồng doanh nghiệp.