Đổi mới để Đồng Nai vươn khỏi 'bẫy trung bình'

Bước vào giai đoạn 2025 - 2030, Đồng Nai mang theo khát vọng vươn mình trở thành cực tăng trưởng mới của vùng Đông Nam Bộ sau sáp nhập với Bình Phước. Nhưng để hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng hai con số, tỉnh phải đối diện hàng loạt 'điểm nghẽn' nội tại, từ chất lượng nhân lực, năng lực đổi mới sáng tạo, hiệu quả sử dụng năng lượng cho tới chi phí logistics và quản trị tài nguyên nước lưu vực sông Đồng Nai.

Nghiên cứu của GS.TS Nguyễn Trọng Hoài, Phó Hiệu trưởng Đại học Kinh tế TP HCM, Thành viên Tổ Tư vấn Kinh tế - Xã hội tỉnh Đồng Nai đã chỉ ra rằng con đường bền vững cho Đồng Nai không nằm ở việc chạy theo tốc độ, mà ở năng lực tái cấu trúc theo hướng hiệu quả – sáng tạo – xanh hóa.

Khi “động lực cũ” đã cạn sức

Theo phân tích của các chuyên gia, giai đoạn 2020 - 2025, tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân của Đồng Nai đạt khoảng 6,63%/năm, GRDP bình quân đầu người khoảng 6.063 USD cao hơn 1,36 lần so với năm 2020 nhưng vẫn chỉ bằng một nửa mức trung bình cao của thế giới. Nói cách khác, Đồng Nai đã đến ngưỡng mà tăng trưởng dựa trên lao động và vốn không còn đủ để duy trì đà phát triển. Trong khi đó, năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) đại diện cho đổi mới sán tạo - mới đóng góp khoảng 25 - 30% vào tăng trưởng, thấp hơn nhiều so với mục tiêu vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.

Tiến độ của cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu chậm ảnh hưởng đến sự phát triển của Đồng Nai.

Một “điểm nghẽn” đáng chú ý là chất lượng nguồn nhân lực. Sau sáp nhập, tỷ lệ lao động qua đào tạo của Đồng Nai mới chỉ khoảng 25%, thấp hơn mức trung bình vùng. Lực lượng lao động phổ thông vẫn chiếm đa số trong các khu công nghiệp, khiến tỉnh khó thu hút các nhà đầu tư công nghệ cao. Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo tăng nhanh, nhưng nền tảng tri thức - kỹ năng chưa theo kịp. Điều này khiến Đồng Nai rơi vào thế “lệ thuộc công nghệ nhập khẩu”, chậm hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.

Thực trạng thâm dụng năng lượng và công nghệ lạc hậu cũng đang làm giảm sức cạnh tranh. Chỉ số GRDP/điện năng tiêu thụ của Đồng Nai giảm liên tục giai đoạn 2010 - 2021, cho thấy hiệu quả tạo ra giá trị gia tăng từ năng lượng đang suy yếu. Việc thiếu các chính sách khuyến khích đầu tư tiết kiệm năng lượng, tín dụng xanh hay thuế ưu đãi cho đổi mới công nghệ khiến doanh nghiệp còn dè dặt. Năng lượng tiêu hao nhiều, công nghệ lạc hậu, lao động kỹ năng thấp đó là “tam giác hạn chế” đang kìm hãm Đồng Nai trên hành trình công nghiệp hóa giai đoạn mới.

Hai nút thắt lớn: Quản trị tài nguyên và hạ tầng logistics

Là địa phương nằm ở cả thượng và hạ lưu sông Đồng Nai, con sông nuôi sống hơn 14 triệu dân vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Đồng Nai đang đối diện nguy cơ ô nhiễm nguồn nước nghiêm trọng. Nhiều khu công nghiệp tập trung ven sông xả thải trực tiếp, trong khi cơ chế phối hợp giữa các địa phương còn phân tán. Dù đã có Luật Tài nguyên nước 2012, Luật Bảo vệ môi trường 2020 và Nghị định 120/2008/NĐ-CP về quản lý lưu vực, nhưng Ủy ban lưu vực sông Đồng Nai chưa được trao đủ quyền lực điều phối thực chất. Hệ thống giám sát chất lượng nước vẫn manh mún, thiếu dữ liệu thời gian thực để xử lý sớm các sự cố ô nhiễm.

Tiến độ của Vành đại 3 chậm ảnh hưởng đến sự phát triển của Đồng Nai.

GS.TS Nguyễn Trọng Hoài cho rằng, quản trị tài nguyên nước không thể chỉ là kiểm soát, mà phải trở thành “dịch vụ hệ sinh thái”. Đồng Nai cần sớm áp dụng cơ chế thị trường trong quản lý nước: định giá nguồn nước, tính phí xả thải theo tải lượng, khuyến khích tái sử dụng và tuần hoàn.

Mô hình đền bù sinh thái lưu vực do Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đề xuất, nơi khu vực hạ lưu trả phí dịch vụ môi trường cho khu vực thượng nguồn, được xem là hướng đi khả thi để bảo đảm cân bằng lợi ích và trách nhiệm giữa các tỉnh trong vùng.

Song song đó, hạ tầng logistics tiếp tục là “điểm nghẽn cố hữu”. Dù nằm giữa tam giác phát triển TP HCM - Bình Dương - Bà Rịa - Vũng Tàu cũ, hệ thống giao thông của Đồng Nai vẫn thiếu kết nối đồng bộ. Các tuyến huyết mạch như cao tốc Bến Lức - Long Thành, Biên Hòa - Vũng Tàu, đường sắt nhẹ Thủ Thiêm - Long Thành chậm tiến độ, khiến chi phí vận tải hàng hóa cao, thời gian lưu chuyển dài.

Nhiều khu công nghiệp xa cảng và trung tâm logistics lớn, buộc doanh nghiệp phải tự tổ chức vận tải, làm tăng chi phí lên 10 - 25% tổng giá thành sản phẩm. Việc chưa hình thành các trung tâm logistics vùng khiến tỉnh chưa tận dụng được lợi thế địa kinh tế vốn có.

Tái cấu trúc mô hình phát triển

Theo Quy hoạch tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050, mục tiêu đến năm 2030, năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp 56 - 60% vào tăng trưởng GRDP. Điều này đòi hỏi sự chuyển dịch mạnh mẽ từ “tăng trưởng theo chiều rộng” sang “tăng trưởng theo chiều sâu”, với ba trụ cột chính: hiệu quả - đổi mới sáng tạo - phát triển xanh.

Hoàn thiện hệ thống hạ tầng kết nối với sân bay Long Thành được xem là động lực phát triển của Đồng Nai.

Trước hết, Đồng Nai cần tập trung nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo. Tỉnh có thể thành lập Quỹ R&D và Đổi mới sáng tạo Đồng Nai, khuyến khích hợp tác giữa doanh nghiệp - viện - trường. Các khu công nghiệp hiện hữu nên được chuyển đổi theo mô hình khu công nghiệp sinh thái, gắn tiêu chí tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải và sử dụng tài nguyên tuần hoàn. Đồng thời, việc triển khai các chương trình “tăng tốc kỹ năng” cho lao động kỹ thuật, đặc biệt trong các ngành cơ khí, điện - điện tử, logistics và công nghệ vật liệu, sẽ giúp rút ngắn khoảng cách kỹ năng so với nhóm dẫn đầu vùng.

Bên cạnh đó, xây dựng hệ thống logistics thông minh và xanh là giải pháp trọng tâm. Đồng Nai cần phát triển các trung tâm e-logistics dọc vành đai 3 - 4, kết nối trực tiếp với các cảng biển lớn và sân bay Long Thành. Việc áp dụng công nghệ số trong quản lý vận tải, kho bãi và chuỗi cung ứng sẽ giúp giảm chi phí logistics từ 2 - 3 điểm phần trăm GRDP vào năm 2030. Hạ tầng logistics phát triển sẽ mở ra không gian kinh tế mới, đồng thời thu hút dòng vốn FDI chất lượng cao.

Cuối cùng, quản trị tài nguyên và môi trường theo hướng thông minh cần được xem là trụ cột dài hạn. Cơ chế Ủy ban lưu vực sông Đồng Nai phải được kiện toàn, có thẩm quyền thực thi xuyên tỉnh, được hỗ trợ bởi hệ thống quan trắc tự động và cơ sở dữ liệu mở. Chính sách thuế môi trường, phí nước, và tín chỉ carbon nội vùng cần được thiết kế đồng bộ để vừa bảo vệ nguồn nước, vừa tạo nguồn thu tái đầu tư cho các dự án xanh. Đây là yếu tố then chốt giúp Đồng Nai trở thành địa phương tiên phong trong “kinh tế tuần hoàn vùng”.

Hướng tới một Đồng Nai hiệu quả, sáng tạo và xanh

Nghiên cứu của GS.TS Nguyễn Trọng Hoài khẳng định: Đồng Nai chỉ có thể bứt phá nếu thoát khỏi “động lực cũ” dựa vào lao động và vốn, chuyển hẳn sang mô hình tăng trưởng dựa vào năng suất, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Từ năm 2025 trở đi, chiến lược phát triển của tỉnh cần đặt trọng tâm vào việc tăng đóng góp của khu vực kinh tế tri thức, phát triển logistics vùng và thiết lập cơ chế quản trị tài nguyên hiện đại.

Đổi mới sáng tạo, áp dụng khoa học công nghệ được xác định là động lực tăng trưởng mới của Đồng Nai.

Sau sáp nhập với Bình Phước, Đồng Nai sở hữu cả nền tảng công nghiệp mạnh lẫn quỹ đất rộng và tài nguyên phong phú - một lợi thế hiếm có để kiến tạo mô hình phát triển “hai trong một”: công nghiệp xanh kết hợp nông nghiệp công nghệ cao. Nhưng cơ hội chỉ thực sự thành hiện thực nếu tỉnh có chiến lược quản trị thông minh, đồng bộ, hướng tới phát triển bền vững và nhân văn.

Khi “hiệu quả - sáng tạo - xanh hóa” trở thành trục phát triển mới, Đồng Nai không chỉ duy trì vị thế đầu tàu công nghiệp của Đông Nam Bộ, mà còn có thể định hình một hình mẫu “tăng trưởng dựa trên tri thức và trách nhiệm môi trường” – con đường tất yếu của các địa phương hướng tới phát triển bền vững trong kỷ nguyên mới.

Tiến Dũng

Nguồn Pháp Luật VN: https://baophapluat.vn/doi-moi-de-dong-nai-vuon-khoi-bay-trung-binh.html