Đổi mới căn bản, toàn diện trong giáo dục và đào tạo

Quy mô đào tạo phát triển mạnh mẽ khi tỷ lệ học sinh đi học đúng độ tuổi ngày càng cao, tình trạng bỏ học giảm rõ rệt; đến năm 2020, khoảng 70% lao động qua đào tạo nghề có chứng chỉ; số sinh viên trên 1 vạn dân tăng từ 117 (năm 2000) lên hơn 200 (năm 2010) và tiếp tục tăng trong những năm sau.

Trong 25 năm, giáo dục Việt Nam mở rộng nhanh chóng ở tất cả các bậc học. Giáo dục mầm non đạt phổ cập cho trẻ 5 tuổi vào năm 2017, với gần 99% trẻ đi học.

Trong 25 năm, giáo dục Việt Nam mở rộng nhanh chóng ở tất cả các bậc học. Giáo dục mầm non đạt phổ cập cho trẻ 5 tuổi vào năm 2017, với gần 99% trẻ đi học.

Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết, nền giáo dục Việt Nam đã trải qua một chặng đường đầy biến động và đột phá trong hai thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21, từ việc củng cố nền tảng đến bứt phá mạnh mẽ trong bối cảnh hội nhập và Cách mạng Công nghiệp 4.0.

Theo đó, giai đoạn 2000-2010 tập trung vào việc củng cố nền tảng và phổ cập giáo dục. Đến năm 2000, Việt Nam đã hoàn thành phổ cập Tiểu học và xóa mù chữ. Tiếp đó, đến tháng 6/2010, cả 63 tỉnh, thành phố đều đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở.

Chặng đường 2000 - 2025, giáo dục Việt Nam đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ với nhiều thành tựu quan trọng, nổi bật là việc hoàn thành phổ cập và đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo. Bước vào giai đoạn mới, với bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, việc tiếp tục đổi mới trở nên cấp thiết. Vì vậy, chuyển đổi số toàn diện, tăng cường tự chủ và thắt chặt liên kết giữa nhà trường với xã hội chính là những nhiệm vụ chiến lược để xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước.

Giai đoạn 2011 - 2013, Việt Nam bước vào thời kỳ chuyển đổi mô hình tăng trưởng dựa vào tri thức, hội nhập sâu rộng, đối diện yêu cầu cấp bách về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đại hội XI (2011) xác định Giáo dục và Đào tạo là quốc sách hàng đầu; các văn bản trọng yếu như Chiến lược Phát triển giáo dục 2011 – 2020, Luật Giáo dục Đại học 2012 và đặc biệt Nghị quyết 29-NQ/TW (2013) đã tạo hành lang pháp lý cho đổi mới toàn diện.

Theo đó, trên cơ sở Nghị quyết 29, nhiều cải cách lớn được triển khai. Đáng chú ý, Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 được ban hành, chuyển từ tiếp cận nội dung sang phát triển năng lực, phẩm chất; sách giáo khoa mới do nhiều nhóm tác giả biên soạn, triển khai từ lớp 1 (2020 - 2021). Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp trở thành bắt buộc, đồng thời hoàn thành phổ cập cho trẻ 5 tuổi năm 2017.

Trong 25 năm (từ 2000 - 2025), giáo dục Việt Nam mở rộng nhanh chóng ở tất cả các bậc học. Giáo dục mầm non đạt phổ cập cho trẻ 5 tuổi vào năm 2017, với gần 99% trẻ đi học. Ở phổ thông, phổ cập Tiểu học được duy trì vững chắc, Trung học cơ sở hoàn thành trên toàn quốc và nhiều địa phương đã phổ cập Trung học phổ thông; tỷ lệ học sinh đi học đúng độ tuổi tăng, tình trạng bỏ học giảm rõ rệt.

Giáo dục nghề nghiệp phát triển mạnh, đến năm 2020 khoảng 70% lao động qua đào tạo nghề được cấp chứng chỉ. Trong giáo dục Đại học, số sinh viên/1 vạn dân tăng từ 117 (2000) lên trên 200 (2010) và tiếp tục tăng trong giai đoạn 2020 - 2025; nhiều trường thực hiện tự chủ, gắn kết với thị trường lao động. Đến năm 2025, hệ thống giáo dục hình thành mạng lưới đồng bộ từ mầm non đến sau đại học, đa dạng loại hình, tiệm cận chuẩn mực khu vực và quốc tế.

Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài

Vượt qua những khó khăn, nền giáo dục Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành tựu đáng tự hào, mang tính đột phá và thể hiện tầm nhìn chiến lược của ngành giáo dục, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài.

Trước hết, mạng lưới giáo dục từ mầm non đến đại học được mở rộng và hoàn thiện, cơ sở vật chất ngày càng hiện đại; số trường đạt chuẩn quốc gia và cơ sở giáo dục ngoài công lập tăng nhanh, tạo sự đa dạng về loại hình.

Đồng thời, hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở được duy trì vững chắc, nhiều địa phương phổ cập trung học phổ thông, và đặc biệt năm 2017, Việt Nam công nhận hoàn thành phổ cập mầm non cho trẻ 5 tuổi với gần 99% trẻ đi học.

Cùng với đó, quy mô giáo dục và đào tạo phát triển mạnh, tỷ lệ học sinh đi học đúng độ tuổi tăng, tình trạng bỏ học giảm rõ rệt; đến năm 2020 khoảng 70% lao động qua đào tạo nghề được cấp chứng chỉ; số sinh viên/1 vạn dân tăng từ 117 (2000) lên hơn 200 (2010) và tiếp tục tăng sau đó.

Cả nước đã hoàn thành chu kì đầu tiên trong triển khai Chương trình giáo dục phổ thông 2018; giáo dục nghề nghiệp gắn chặt hơn với nhu cầu thị trường; bậc đại học mở rộng tự chủ, kiểm định chất lượng và có nhiều chương trình đạt chuẩn khu vực, quốc tế. Công bằng giáo dục được cải thiện nhờ chính sách hỗ trợ học sinh nghèo, vùng khó khăn, dân tộc thiểu số, giúp gia tăng tỷ lệ nhập học của nhóm yếu thế.

Đặc biệt, hội nhập quốc tế và chuyển đổi số trở thành động lực mới. Nhiều cơ sở đào tạo liên kết quốc tế, trong khi chuyển đổi số sau đại dịch Covid -19 đã thúc đẩy xây dựng kho học liệu số, dạy học trực tuyến và quản trị hiện đại, đặt nền móng cho hệ sinh thái giáo dục số của Việt Nam.

Mục tiêu của giáo dục, đào tạo trong giai đoạn tới là "Xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện có hiệu quả chủ trương giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước" nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, có sức khỏe, năng lực, trình độ, có ý thức, trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc và "Chú trọng giáo dục phẩm chất, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, khơi dậy khát vọng phát triển, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc", gắn với giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục thể chất, nâng cao tầm vóc con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bích Hà

Nguồn Tài Chính: http://tapchitaichinh.vn/doi-moi-can-ban-toan-dien-trong-giao-duc-va-dao-tao.html?source=cat-57
Zalo