Doanh nghiệp công nghệ số vươn ra thị trường quốc tế từ cơ hội của luật mới

Luật Công nghiệp công nghệ số không chỉ định hình khung pháp lý cho phát triển kinh tế số trong nước mà còn tạo hành lang để doanh nghiệp Việt nâng cao năng lực, mở rộng thị trường và từng bước hội nhập quốc tế.

Trong bối cảnh kinh tế số toàn cầu chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong GDP, việc tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị công nghệ số được xem là hướng đi chiến lược giúp Việt Nam gia tăng giá trị và khẳng định vị thế trên bản đồ công nghệ.

Chính sách phát triển thị trường, tạo điều kiện cho doanh nghiệp vươn ra quốc tế

Luật đặt nền tảng phát triển thị trường, từ đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng ra quốc tế, trong đó có hoạt động xuất khẩu phần mềm, dịch vụ số. Doanh nghiệp đầu tư cho R&D trong các lĩnh vực trọng điểm như AI, bán dẫn được hưởng cơ chế ưu đãi theo pháp luật về đầu tư, thuế và đất đai, cùng các chính sách hỗ trợ của Nhà nước.

Đây là bước đi quan trọng, tạo thêm động lực cho các công ty công nghệ mở rộng quy mô, nâng cao năng lực cạnh tranh và hướng đến thị trường quốc tế.

Doanh nghiệp đầu tư cho R&D trong các lĩnh vực trọng điểm như AI, bán dẫn được hưởng cơ chế ưu đãi theo pháp luật về đầu tư, thuế và đất đai, cùng các chính sách hỗ trợ của Nhà nước. (Nguồn: VnEconomy)

Doanh nghiệp đầu tư cho R&D trong các lĩnh vực trọng điểm như AI, bán dẫn được hưởng cơ chế ưu đãi theo pháp luật về đầu tư, thuế và đất đai, cùng các chính sách hỗ trợ của Nhà nước. (Nguồn: VnEconomy)

Bên cạnh đó, Luật Công nghiệp công nghệ số quy định hạ tầng số – bao gồm mạng viễn thông, Internet, hệ thống thông tin, trung tâm dữ liệu, hệ thống giám sát và bảo đảm an toàn thông tin – là một bộ phận của kết cấu hạ tầng khu công nghệ số tập trung (Điều 25.1a).

Đồng thời, Nhà nước có chính sách quản lý và thúc đẩy phát triển dữ liệu số trong hoạt động công nghiệp công nghệ số (Điều 26.1). Quy định này tạo cơ sở pháp lý để doanh nghiệp nâng cao năng lực, mở rộng quy mô dịch vụ và từng bước tham gia vào chuỗi giá trị công nghệ số.

Tiêu chuẩn, chứng chỉ quốc tế

Để sản phẩm, dịch vụ công nghệ số Việt Nam thâm nhập thị trường toàn cầu, Luật Công nghiệp công nghệ số quy định việc áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đồng thời khuyến khích doanh nghiệp tham gia xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế trong quá trình phát triển sản phẩm, dịch vụ (Điều 7).

Việc tuân thủ các chuẩn mực quốc tế không chỉ nâng cao uy tín của doanh nghiệp Việt mà còn tạo thuận lợi khi tiếp cận các thị trường có yêu cầu khắt khe về chất lượng và an toàn kỹ thuật (Điều 30.1b).

Song song, Luật cũng nhấn mạnh vai trò của việc cung cấp thông tin thị trường, thúc đẩy hợp tác, liên kết giữa doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học để nâng cao năng lực đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế (Điều 30.1a, 30.1e). Qua đó, doanh nghiệp Việt có thêm nền tảng để hội nhập, mở rộng thị phần và nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.

Các thị trường tiềm năng

Khung pháp lý mới tạo điều kiện cho việc mở rộng xuất khẩu công nghệ số sang nhiều khu vực. Trong ASEAN, nhu cầu về dịch vụ đám mây, thương mại điện tử và an ninh mạng dự báo sẽ tăng mạnh trong thập kỷ tới, mở ra dư địa phát triển lớn cho doanh nghiệp công nghệ. Ở Đông Bắc Á, Nhật Bản và Hàn Quốc – những đối tác đã có truyền thống hợp tác lâu dài với doanh nghiệp Việt – tiếp tục là thị trường triển vọng cho phần mềm và dịch vụ CNTT.

Bên cạnh đó, châu Âu và Bắc Mỹ, tuy đặt ra yêu cầu khắt khe về tiêu chuẩn, lại có giá trị hợp đồng lớn, phù hợp với những doanh nghiệp đã đạt độ chín về công nghệ. Đối với các công ty khởi nghiệp sáng tạo, khu vực châu Phi và Nam Á cũng đáng chú ý khi nhu cầu về giải pháp fintech, giáo dục trực tuyến và y tế số tăng nhanh trong khi nguồn cung nội địa còn hạn chế.

Thách thức hội nhập

Bên cạnh cơ hội, doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam sẽ phải đối diện với không ít thách thức khi bước ra thị trường quốc tế.

Thứ nhất là áp lực cạnh tranh, khi nhiều quốc gia trong khu vực như Ấn Độ, Philippines hay Malaysia đã hình thành ngành công nghiệp xuất khẩu phần mềm và dịch vụ số từ sớm, có thương hiệu và uy tín quốc tế.

Thứ hai là yêu cầu tuân thủ pháp lý phức tạp, khi mỗi thị trường có bộ quy tắc riêng về bảo mật dữ liệu, sở hữu trí tuệ và thương mại số. Việc thích ứng với nhiều bộ chuẩn khác nhau sẽ khiến doanh nghiệp Việt tốn kém chi phí và nguồn lực.

Luật Công nghiệp công nghệ số đã mở ra hành lang pháp lý thuận lợi để doanh nghiệp công nghệ số phát triển thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh và từng bước hội nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. (Nguồn: Bộ Khoa học và Công nghệ)

Luật Công nghiệp công nghệ số đã mở ra hành lang pháp lý thuận lợi để doanh nghiệp công nghệ số phát triển thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh và từng bước hội nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. (Nguồn: Bộ Khoa học và Công nghệ)

Ngoài ra, chất lượng nhân lực công nghệ cũng là một thách thức lớn. Dù Việt Nam hiện có khoảng 1,2 triệu lao động CNTT, nhưng theo dự báo, đến năm 2030 con số này cần đạt 2–3 triệu để đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số trong nước và xuất khẩu. Khoảng trống nhân lực chất lượng cao sẽ ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh nếu không có chính sách đào tạo, bồi dưỡng kịp thời.

Luật Công nghiệp công nghệ số đã mở ra hành lang pháp lý thuận lợi để doanh nghiệp công nghệ số phát triển thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh và từng bước hội nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Các quy định về khuyến khích R&D, phát triển hạ tầng số và dữ liệu số, yêu cầu tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế và phát triển nhân lực số chính là nền tảng giúp doanh nghiệp Việt vươn ra thế giới.

Tuy nhiên, cơ hội chỉ trở thành hiện thực khi bản thân doanh nghiệp chủ động đổi mới, nâng cao năng lực nội tại, đồng thời Nhà nước tiếp tục hỗ trợ về chính sách, hạ tầng và nguồn nhân lực. Nếu tận dụng tốt, Việt Nam có thể khẳng định vị thế trên bản đồ công nghệ toàn cầu như một quốc gia có năng lực cung ứng sản phẩm, dịch vụ công nghệ số uy tín.

Huyền Thanh

Nguồn TG&VN: https://baoquocte.vn/doanh-nghiep-cong-nghe-so-vuon-ra-thi-truong-quoc-te-tu-co-hoi-cua-luat-moi-332255.html