Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh góp ý vào 3 dự án luật
Sáng 4/11, tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, sau khi nghe các báo cáo, tờ trình, các đại biểu Quốc hội thảo luận tại tổ về Dự án Luật Thi hành án hình sự (sửa đổi); Dự án Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam và cấm đi khỏi nơi cư trú; Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Lý lịch tư pháp. Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh có 3 đại biểu tham gia góp ý nhiều nội dung của các dự án luật.

Các đại biểu Quốc hội tham gia thảo luận tại tổ 8, sáng 4/11.
Tham gia thảo luận về Dự án Luật Thi hành án hình sự (sửa đổi), Phó trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh Trần Thị Vân cho biết: Tại khoản 3, Điều 26 có quy định: “Phạm nhân là người đồng tính, người chuyển đổi giới tính, người chưa xác định rõ giới tính có thể được giam giữ riêng”. Đây là một bước tiến đáng ghi nhận trong việc bảo vệ quyền con người. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể về việc công nhận giới tính pháp lý của người đồng tính, người chuyển giới (ngoại trừ trường hợp can thiệp y tế hoàn chỉnh ở một số đất nước đã cho phép) và chưa có cơ chế xác định giới tính đối với người đồng giới. Việc xác định “đồng tính” (hay còn gọi là đối tượng thuộc cộng đồng LGBT) mang tính chủ quan, dựa trên xu hướng tính dục chứ không phải bản dạng giới. Do vậy, việc áp dụng quy định này trên thực tế sẽ gặp nhiều vướng mắc. Đề nghị ban soạn thảo tiếp tục nghiên cứu quy định cụ thể về các tiêu chí, thủ tục để bố trí giam giữ riêng đối với các trường hợp này.

Đại biểu Trần Thị Vân phát biểu trong phiên thảo luận tại tổ, sáng 4/11.
Về chế độ đối với phạm nhân nữ có thai, nuôi con dưới 36 tháng tuổi, phạm nhân hiến mô, bộ phận cơ thể, tại khoản 4, Điều 48 quy định: “Trại giam, trại tạm giam có trách nhiệm làm thủ tục đề nghị đăng ký khai sinh cho con của phạm nhân. UBND cấp xã nơi phạm nhân chấp hành án có trách nhiệm đăng ký và cấp giấy khai sinh”. Đại biểu cho rằng điều này đã thể hiện sự quan tâm đến quyền công dân của trẻ em khi được sinh ra trong trại giam. Tuy nhiên, quy định chưa đề cập đến việc đăng ký thường trú, tạm trú cho trẻ em khi sinh ra trong trại giam. Đề nghị ban soạn thảo nghiên cứu, bổ sung nội dung này cho phù hợp với quyền trẻ em và quyền công dân của đối tượng này.
Tại khoản 6 quy định: “Trại giam phải tổ chức nhà trẻ ngoài khu giam giữ để chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em là con của phạm nhân dưới 36 tháng tuổi và con của phạm nhân từ 36 tháng tuổi trở lên trong thời gian chờ làm thủ tục đưa vào cơ sở trợ giúp xã hội”. Đại biểu Trần Thị Vân cho rằng, trẻ em từ khi sinh ra đến 36 tháng tuổi là một giai đoạn vàng để phát triển, hình thành tính cách của con người, vì vậy việc phát triển trí tuệ, ngôn ngữ, tình cảm và xã hội là việc vô cùng cần thiết ngoài việc phát triển về thể chất. Việc dạy trẻ là rất quan trọng, không thể thiếu ở giai đoạn này. Ngoài ra, nhà trẻ trong trại giam dù được đặt ngoài khu giam giữ nhưng vẫn là một môi trường đặc thù, cần phải có một đội ngũ cán bộ có chuyên môn về nuôi dạy, chăm sóc trẻ nhỏ từ khi hết thời gian thai sản của phạm nhân đến 36 tháng tuổi và cơ sở vật chất phù hợp để nuôi dạy trẻ. Vì vậy, đề nghị đổi cụm từ “chăm sóc, nuôi dưỡng” thành “chăm sóc, nuôi dạy” để phù hợp với quyền trẻ em.

Đại biểu Trần Văn Tuấn phát biểu trong phiên thảo luận ở tổ, sáng 4/11.
Cho ý kiến vào Dự án Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam và cấm đi khỏi nơi cư trú, Phó trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh Trần Văn Tuấn khẳng định: Việc thực hiện chính sách pháp luật về tạm giam, tạm giữ hiện nay khá tốt. Điều kiện của các cơ sở tạm giam, tạm giữ được nhà nước quan tâm, ngày càng tốt hơn, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giam, tạm giữ. Tuy nhiên thực tế hiện nay công tác tạm giam, tạm giữ còn một số bất cập.
Góp ý cụ thể vào nội dung dự án luật, đại biểu Trần Văn Tuấn cho biết: Về nguyên tắc quản lý thi hành tạm giữ, tạm giam và cấm đi khỏi nơi cư trú, tại Điều 3 quy định 6 nhóm nguyên tắc, trong đó tại khoản 4 quy định nhóm nguyên tắc bảo đảm cho người bị tạm giam, tạm giữ, cấm đi khỏi nơi cư trú được thực hiện quyền con người. Ngoài nguyên tắc này, cần bổ sung một nguyên tắc là bảo đảm cơ chế giám sát độc lập của cơ quan, tổ chức xã hội và các cơ quan dân cử để phòng ngừa các vi phạm quyền con người, quyền công dân trong thi hành việc tạm giữ, tạm giam nhằm ngăn ngừa việc lạm dụng quyền lực của cơ quan liên quan trong tạm giữ, tạm giam.
Tại Điều 24 quy định về kỷ luật người bị tạm giữ, người bị tạm giam vi phạm nội quy của cơ sở giam giữ, chế độ quản lý giam giữ. Theo đó, nếu người bị tạm giữ, tạm giam mà vi phạm nội quy của của cơ sở giam giữ, chế độ giam giữ, tùy tính chất, mức độ có thể áp dụng một trong hai hình thức là cảnh cáo hoặc cách ly ở buồng kỷ luật.
Tại khoản 3, Điều 24 quy định: “Người bị cách ly ở buồng kỷ luật nếu có hành vi chống phá quyết liệt cơ sở giam giữ, tự sát, tự gây thương tích cho bản thân, xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người khác thì bị cùm một chân. Thời gian bị cùm chân do Thủ trưởng cơ sở giam giữ quyết định. Không áp dụng cùm chân đối với người bị kỷ luật là người dưới 18 tuổi, phụ nữ, người khuyết tật nặng trở lên, người đủ 70 tuổi trở lên. Trong thời gian bị cách ly ở buồng kỷ luật, người bị tạm giữ, người bị tạm giam bị hạn chế việc thăm gặp, gửi, nhận thư”.
Đại biểu cho rằng quy định biện pháp cùm chân mang tính cưỡng chế cao, dễ tạo cảm giác trừng phạt thân thể, có thể bị xem là hình thức đối xử vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người, đi ngược lại với khoản 1, Điều 20 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định “…, không ai bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”; Công ước quốc tế chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người của Liên Hợp Quốc mà Việt Nam là thành viên. Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, quy định cho phù hợp. Ngoài ra, cần giải thích rõ cụm từ “chống phá quyết liệt ”, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình triển khai, thực hiện. Bên cạnh đó, việc tạo điều kiện cho người thân thăm gặp, gửi thư là thực hiện quyền con người, có tác dụng trong công tác tư tưởng đối với phạm nhân, qua đó giúp giáo dục phạm nhân cải tạo tốt hơn.

Đại biểu Đỗ Thị Việt Hà phát biểu trong phiên thảo luận tại tổ, sáng 4/11.
Góp ý vào Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Lý lịch tư pháp, đại biểu Đỗ Thị Việt Hà nhất trí với những quy định trong dự thảo về thực hiện cấp phiếu lí lịch tư pháp số 1, phiếu lí lịch tư pháp số 2 để khắc phục tình trạng lạm dụng yêu cầu cấp phiếu lí lịch tư pháp, gây khó khăn, tốn kém cho Nhân dân, cơ quan, tổ chức.
Đại biểu cho biết, thực tiễn thời gian qua, tính trung bình một năm tỉnh Bắc Giang cũ và tỉnh Bắc Ninh cấp khoảng trên 25.000 phiếu tư pháp. Đây là 2 trong trong số các tỉnh cấp số lượng phiếu ý định tư pháp nhiều nhất toàn quốc. Trong số hơn 25.000 phiếu này thì có khoảng trên 10.000 phiếu là phiếu số 1, trên 15.000 là phiếu số 2.
Đại biểu đề nghị tiếp tục nghiên cứu để chỉnh lý quy định về mục đích quản lý lí lịch tư pháp và bổ sung nguyên tắc về những trường hợp cơ quan, tổ chức được yêu cầu cá nhân cung cấp phiếu lí lịch tư pháp nhằm tránh tình trạng lạm dụng việc yêu cầu cấp phiếu lí lịch tư pháp số 1, tạo gánh nặng không cần thiết cho người dân và cơ quan quản lý nhà nước. Đồng thời đề nghị quy định ngay trong luật này việc hiển thị nội dung thông tin của phiếu lí lịch tư pháp số 1 trên VNeID để bảo đảm việc kết nối liên thông và thuận lợi cho việc truy cập, sử dụng thông tin này của cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan.
Thực tế thời gian qua cho thấy, việc yêu cầu cấp phiếu lí lịch tư pháp số 2 đang bị lạm dụng, chủ yếu là do các cơ quan, tổ chức có yêu cầu, nhất là đối với các hồ sơ xin thị thực nhập cảnh, kết hôn, xuất khẩu lao động, xin việc làm… Việc này không chỉ làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền được pháp luật bảo đảm bí mật cá nhân theo quy định của Hiến pháp và chính sách nhân đạo trong pháp luật hình sự của Nhà nước ta mà còn ảnh hưởng tới việc tái hòa nhập cộng đồng của người bị kết án, đặc biệt là đối với những người đã được xóa án tích.
Đại biểu tán thành với việc dự thảo luật sửa đổi quy định về cấp phiếu lí lịch tư pháp số 2 theo hướng việc sử dụng phiếu lí lịch tư pháp số 2 phải được sự đồng ý của người được cấp phiếu lí lịch tư pháp theo quy định của pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân tại khoản 1 Điều 4; đồng thời đã bổ sung quy định về việc cơ quan, tổ chức không được yêu cầu cá nhân cung cấp phiếu lí lịch tư pháp số 2 tại khoản 4 Điều 7.
Tuy nhiên, đề nghị đánh giá kỹ lưỡng tác động của quy định về việc cơ quan, tổ chức không được yêu cầu cá nhân cung cấp phiếu lí lịch tư pháp số 2 bởi có thể dẫn đến tình trạng gây khó khăn cho công dân khi thực hiện các thủ tục về xin thị thực, xuất cảnh, nhập cảnh… mà quốc gia sở tại yêu cầu phải cung cấp các thông tin liên quan đến án tích đã có. Đề nghị nghiên cứu chỉnh sửa theo hướng quy định xác định rõ một số trường hợp cụ thể mà cơ quan, tổ chức có thể yêu cầu cá nhân cung cấp phiếu lí lịch tư pháp số 2.






























