Đò dọc - một 'chuyến đò' chở nặng tâm hồn Bình Nguyên Lộc
Trong số khoảng 50 tiểu thuyết của nhà văn Bình Nguyên Lộc, 'Đò dọc' là một trong những tiểu thuyết được đánh giá cao nhất, từng giành được giải nhất 'Giải thưởng Văn chương toàn quốc năm 1959 - 1960'. Đây là một tác phẩm xưa có giá trị hiện thực, giá trị nhân văn và giá trị văn hóa sâu sắc, được viết bằng một bút pháp tinh tế và duyên dáng.
"Đò dọc" - chuyến đò tình yêu trong bi kịch dạt trôi
"Đò dọc" kể câu chuyện về gia đình ông bà Nam Thành với 4 cô con gái sống giữa buổi giao thời ở Sài Gòn, là một “gia đình lưng chừng, không dám Tây quá mà không chịu cổ quá”. Trong cơn biến động của thời cuộc, hai vợ chồng gốc Bạc Liêu, vốn mới “bám rễ” đất Sài Gòn đâu chừng chục năm, lại phải đùm túm nhau lên miệt Thủ Đức. Họ chọn làng thuốc Linh Chiểu, cất một gia trang tàm tạm, đặt tên Thái Huyên Trang để làm nông nghiệp, chăn nuôi.

Nhà văn Bình Nguyên Lộc.
Rồi từ Thái Huyên Trang dựa lưng con đường Thiên Lý ấy, biết bao chuyện dở khóc dở cười xảy ra cho gia đình. Nhưng bi kịch nhất, có lẽ là chuyện tình yêu của 4 cô con gái Hương, Hồng, Hoa, Quá. Người quá lứa, kẻ lỡ làng, chị thì thờ ơ, em thì hăm hở háo hức yêu… Nhưng rồi chuyến đò tình của 4 cô đều trắc trở, tròng trành, lật lên, úp xuống khiến cha mẹ bao phen nức nở lo.
Thời đoạn cả nhà rời mảnh đất Sài Gòn, họ “dọn nhà đi giữa sự thờ ơ của hàng xóm”. Nhưng kiểu gì thì, đô thành vẫn có sự sống sôi nổi hơn cái làng thuốc mà các nhà lân cận cách xa “cỡ hú một tiếng dài mới nghe thấy”. Sự tao loạn của thời cuộc buộc họ phải từ giã cái nơi có ánh đèn điện sáng trưng, dạt trôi về thôn quê tù mù, chỉ có đèn măng sông và tiếng côn trùng, đám cỏ bù xít, mớ gia súc gia cầm, mớ cây trái còn trơ trọi giữa mảnh vườn, nghe mưa cũng buồn, hóng gió cũng kém vui… Cái nỗi vui của 4 cô con gái đang tuổi lấy chồng phút chốc bị bứt rời, bỏ lại giữa Sài Gòn, ngơ ngác “mới hôm qua nầy!”. Cô Hồng bỏ lại mối tình đầu ngậm ngùi, cô Quá còn chưa kịp xóa khỏi trí cô hình ảnh các rạp chiếu bóng hực hỡ đèn màu. Cô Hoa luyến tiếc những tiệm kem mát lạnh ngon lành…
Trong cuộc chuyển dời trên chiếc xe cam-nhông đó, chỉ mình ông Nam Thành là háo hức với những “mưu kế” cho một cuộc đời - đời nông dân đúng nghĩa. Riêng bà Nam Thành, lòng rộn những âu lo khi sớm nhận ra cảnh tình đáng thương của 4 đứa con: “Ở đây không phải chỗ của chúng nó. Chỗ của chúng phải vui tươi trẻ trung, sinh động hơn cái không khí ủ rũ nầy”. Khi ta còn lờ mờ chưa rõ nỗi lo của bà Nam Thành, thì đoạn “quay xe” cực dị của Long: chàng có ý định hoãn cưới cô Hồng, con gái ông bà, dù trước đó đã yêu thương đậm sâu - đã phơi bày ra tất cả bi kịch của gia đình: bi kịch của giai cấp kẻ chợ - dân quê. Sự lạc lõng, cô đơn của gia đình ông Nam Thành là sự cô đơn chung của phận người trôi dạt, chưa kịp neo đậu lâu ở bến nào.
Long - chàng họa sĩ ở Sài Gòn, người vô tình bị tai nạn lật xe hơi trong sân gia trang ông bà, được cả gia đình cứu giúp. Anh chàng có chất nghệ sĩ như một chuyến "Đò dọc" ghé đến cái bến hiu quạnh này, mang đến bao nhiêu hy vọng và nguồn năng lượng, sinh khí mới cho những người trong cái gia trang luôn ngơ ngác buồn.
Nhưng chuyến đò này cũng mang đến những rắc rối to lớn nhân danh tình yêu. Cuộc chiến của những cô gái vốn rất yêu thương nhau lại nảy nòi khi họ va vào tình yêu với Long. Anh chàng vì cám cảnh chị em hiền lành, lại vướng mắc cái ơn cứu giúp, không nỡ trắng đen rõ ràng ngay từ đầu, sợ mình “phũ” quá đâm ra bạc nghĩa. Nhưng rồi thật may, dưới sự giáo dục tốt của ông bà Nam Thành, và với tấm lòng của Long, của người anh họ tên Bằng, tất cả các cô lại đầm ấm bên nhau, sau cơn mê lạc đến mức dại dột đi tìm cái chết của cô Hồng, cô Quá.
Dưới ngòi bút tả thực đầy sinh động và cái nhìn cảm thông, Bình Nguyên Lộc cho chúng ta thấy một hiện thực đau xót của xã hội miền Nam buổi giao thời. Nhưng rồi cũng chính ngòi bút nhân văn ấy, cùng với những tư tưởng rất tiến bộ, đã giúp những nhân vật của ông tự cởi trói cuộc đời.
Sự thương cảm của ông đối với thân phận người phụ nữ được chuyển giao qua cái nhìn rất nhân hậu của chàng họa sĩ Long; của người anh họ tên Bằng, của ông bà Nam Thành với 4 cô con gái. Dẫu không thể làm gì thay đổi thời cuộc, nhưng cái tư tưởng tiến bộ về hôn nhân của phụ nữ sẽ giúp người ta dễ dàng xoay chuyển hơn. Như Long, khi anh ngộ ra rằng cô Hồng - vợ sắp cưới không được sành điệu như một cô gái ở đô thành chính hiệu, bởi cô đã bị cuộc sống thôn quê tước mất cái mác thị dân lâu nay, thành một cô gái quê thô kệch. Nhưng chỉ cần anh cưới và đưa cô về lại Sài Gòn, thì cô sẽ trở lại là một người “kẻ chợ” đầy giá trị như trước đây.
"Đò dọc" không chỉ hấp dẫn bởi câu chuyện biến động thời cuộc và chuyện tình đầy kịch tính, nó còn là nơi để tác giả dụng công đưa lời ăn tiếng nói Nam Bộ xưa vào những trang viết thật lôi cuốn. Ngôn ngữ chính là thứ độc đáo nhất trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc. "Đò dọc" chính là một kho tàng lời ăn tiếng nói của người Nam Bộ mà ông đã cất công sưu tầm và đưa vào.
Những nhân vật của "Đò dọc" có cách nói chuyện vừa bình dân vừa tao nhã, vừa khách khí giữ kẽ vừa gần gũi ân cần, đoán ý tứ nhau một cách tinh tế, sâu sắc. Nhân vật Long và Bằng lại là tuyến nhân vật gây thú vị nhờ lời ăn tiếng nói đầy học thức đúng danh người “kẻ chợ”. Cái cách Long tỏ tình, thật khiến các cô gái phải xiêu lòng nhanh chóng.
Là nhà văn hóa, Bình Nguyên Lộc mô tả khung cảnh đời sống của người dân Nam Bộ với sự tỉ mỉ, hứng thú và tái hiện chúng rất sinh động, rất đời. Căn nhà của gia đình ông bà Nam Thành toát lên vẻ truyền thống với những “lọ sành Lái Thiêu”, “vách trỉ long mốt”, “mâm gỗ mít tròn”, phên tre…
Thế giới văn chương và tâm hồn Bình Nguyên Lộc
Bình Nguyên Lộc là một nhà văn lớn của Việt Nam, thuộc tốp 3 nhà văn có sáng tác nhiều nhất của cả nước, còn được gọi là “tam kiệt” của văn học Việt Nam, bên cạnh nhà văn Hồ Biểu Chánh và Lê Văn Trương. Nhìn lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ của nhà văn Bình Nguyên Lộc, người đọc sẽ không khỏi ngỡ ngàng và phải ngả mũ bởi sức viết, nghiên cứu và cái tâm của ông trong việc bảo tồn văn hóa, lời ăn tiếng nói của người Việt, nhất là ngôn ngữ bình dân nhưng sâu sắc của người miền Nam.

Bìa cuốn “Đò dọc” của Bình Nguyên Lộc.
Bình Nguyên Lộc bắt đầu viết văn vào năm 1936, khi thuyên chuyển công việc từ Kho bạc tỉnh Thủ Dầu Một về làm nhân viên kế toán Kho bạc Sài Gòn. Năm 1946, ông lò dò viết báo. Năm 1949, ông xuống Sài Gòn và ở hẳn đó cho tới năm 1985.
Sài Gòn chính là nơi mà sự nghiệp viết lách Bình Nguyên Lộc phát triển rực rỡ nhất (tính từ năm 1949 đến năm 1975). Ông vừa viết văn, viết báo, nghiên cứu, đồng thời cũng là chủ bút của nhiều tờ báo lớn tại đây. Giai đoạn này, ông cũng có mối giao hảo mật thiết với rất nhiều cây bút tên tuổi trong làng văn, làng báo: Đông Hồ, Lê Sĩ Quý, Sơn Nam… Tâm hồn của một nhà văn, nhà văn hóa lớn của Nam Bộ cũng bắt đầu dạt dào từ đây.
Nguồn gốc, ngôn ngữ, di dân, cõi âm - 4 yếu tố đặc sánh tâm hồn Bình Nguyên Lộc luôn hiện diện trong di sản văn chương đồ sộ mà ông để lại cho đời, trong đó có "Đò dọc".
Thế giới văn chương của Bình Nguyên Lộc là một tấm gương lớn phản chiếu nỗi niềm đau đáu nhìn từ những vấn đề cốt tử của truyền thống văn hóa, con người Việt Nam. Nhưng phong cách văn chương của ông lại mở ra một sự giao lưu văn hóa giữa 2 miền Nam - Bắc, không quá rạch ròi hay một chiều mà luôn ở cái ngưỡng dung hòa. Điều này thể hiện rõ ở sự truy nguyên nguồn gốc ngôn ngữ 2 miền trong tiểu thuyết "Đò dọc".
Bình Nguyên Lộc (1914 - 1987) tên thật là Tô Văn Tuấn, xuất thân trong một gia đình có mười đời sống tại Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa (tỉnh Bình Dương cũ, nay sáp nhập vào TP. Hồ Chí Minh). Ông là nhà văn lớn, nhà văn hóa Nam Bộ chuyên nghiên cứu về dân tộc học, ngôn ngữ và cổ văn (giai đoạn 1945-1975). Trong sự nghiệp cầm bút, ông có khoảng 50 tiểu thuyết, 1.000 truyện ngắn và 4 cuốn sách nghiên cứu.