Định hướng phát triển và kinh tế báo chí Việt Nam trong thời kỳ mới
Trong bối cảnh mới, làm thế nào để báo chí giữ vững định hướng chính trị, đồng thời thích ứng với quy luật thị trường và công nghệ, vừa là một ngành kinh tế sáng tạo, vận hành theo nguyên lý của thị trường nhưng không bị lệch chuẩn? Câu hỏi với mục tiêu kép này đặt ra yêu cầu cấp bách về một tầm nhìn mới, một thể chế mới cho phát triển và kinh tế báo chí Việt Nam trong kỷ nguyên số.

Dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi) cần được coi là cơ hội tái định vị vai trò của báo chí trong kỷ nguyên mới. Ảnh N.Lộc
Báo chí Việt Nam ngày càng tinh gọn và chuyên nghiệp, hiện đại hơn
Báo chí Việt Nam ra đời cùng cách mạng, lớn lên cùng đất nước và luôn đi trước, mở đường cho tiến trình đổi mới tư duy xã hội. Trong suốt gần 100 năm qua, báo chí cách mạng Việt Nam đã làm tròn sứ mệnh “vì nước, vì dân, vì con người”, là công cụ sắc bén của Đảng, là diễn đàn của nhân dân, là cầu nối giữa ý Đảng và lòng dân.
Nhưng bước vào thế kỷ XXI, khi truyền thông toàn cầu biến đổi nhanh chưa từng có, báo chí Việt Nam đứng trước một thử thách lớn: Làm thế nào để giữ vững bản sắc chính trị - văn hóa của mình mà vẫn hội nhập, cạnh tranh và phát triển bền vững trong môi trường kinh tế số và mạng xã hội?
Tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV đang diễn ra, các đại biểu Quốc hội sẽ cho ý kiến về Dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi), trong đó đều nhấn mạnh yêu cầu cấp thiết phải sửa đổi Luật trong bối cảnh báo chí, truyền thông đang chuyển đổi mạnh mẽ theo hướng số hóa.
Thực tế cho thấy, sau gần một thập niên thực hiện Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025, hệ thống báo chí Việt Nam đã có bước sắp xếp, tinh gọn và chuyên nghiệp hơn. Tuy nhiên, cùng với đó là hàng loạt vấn đề mới: mô hình quản trị, nguồn thu, cơ chế tài chính, thị phần quảng cáo, nguồn nhân lực và đổi mới công nghệ. Báo chí không thể chỉ dựa vào ngân sách nhà nước, cũng không thể phó mặc cho thị trường. Một mô hình kinh tế báo chí mới - minh bạch, sáng tạo, có tính tự chủ cao và được bảo đảm bằng thể chế - đang trở thành nhu cầu sống còn.
Sửa Luật Báo chí lần này vì thế không chỉ là sửa một đạo luật nghề nghiệp, mà là xây dựng tầm nhìn thể chế cho nền báo chí Việt Nam hiện đại. Đó là sự kết hợp hài hòa giữa hai trụ cột: phát triển định hướng chính trị - tư tưởng và xây dựng nền kinh tế báo chí bền vững. Nói cách khác, báo chí Việt Nam cần được nhìn nhận vừa là một thiết chế chính trị, vừa là một ngành công nghiệp sáng tạo, có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế tri thức và lan tỏa giá trị văn hóa dân tộc.

Khi báo chí có thể “sống được bằng nghề”, người làm báo sẽ toàn tâm với nghề, không bị chi phối bởi lợi ích bên ngoài và xã hội sẽ được hưởng lợi từ thông tin chuẩn xác, nhân văn và có chiều sâu. Ảnh: N.Lộc
Trong bối cảnh hiện nay, báo chí thế giới đã chuyển mình mạnh mẽ. Ở nhiều quốc gia, kinh tế báo chí đã trở thành một bộ phận cấu thành của nền kinh tế sáng tạo. Các tòa soạn không chỉ sản xuất tin tức mà còn phát triển hệ sinh thái truyền thông, sáng tạo nội dung đa nền tảng, cung cấp dịch vụ dữ liệu, đào tạo, tổ chức sự kiện, thương mại điện tử và xây dựng thương hiệu xã hội. Những tập đoàn truyền thông lớn đều có mô hình tài chính đa nguồn, kết hợp giữa ngân sách công, thu quảng cáo, đăng ký thuê bao và các sản phẩm kinh doanh nội dung số.
Xây dựng một thể chế kinh tế báo chí hiện đại
Với Việt Nam, câu chuyện phát triển và kinh tế báo chí cần được đặt trong tổng thể chiến lược phát triển văn hóa - con người - thông tin. Báo chí là một trong những trụ cột của hệ sinh thái truyền thông quốc gia, vừa gắn bó với nhiệm vụ chính trị, vừa tham gia thị trường nội dung. Do đó, việc xây dựng một thể chế kinh tế báo chí hiện đại phải đảm bảo ba yêu cầu: định hướng - tự chủ - sáng tạo.
Trước hết, định hướng chính trị - tư tưởng vẫn là nguyên tắc cốt lõi, bảo đảm báo chí Việt Nam phát triển đúng hướng, giữ vững bản sắc dân tộc và nền tảng tư tưởng của Đảng. Không thể có báo chí mạnh nếu thiếu niềm tin và lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Nhưng định hướng không có nghĩa là bao cấp, là áp đặt, mà phải được thể hiện qua cơ chế quản trị minh bạch, quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn, tiêu chuẩn nghề nghiệp và đạo đức.

Báo chí đang góp phần quan trọng giúp củng cố niềm tin của người dân vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước. Ảnh: N.Lộc
Thứ hai, tự chủ tài chính là điều kiện tiên quyết. Báo chí chỉ thực sự đổi mới khi được trao quyền tự chủ về tài chính và tổ chức, có khả năng tự hoạch định chiến lược phát triển, huy động nguồn lực xã hội và được phép khai thác dịch vụ truyền thông, quảng cáo, bản quyền, xuất bản số, đào tạo, sự kiện, hợp tác quốc tế… Luật sửa đổi cần tạo hành lang pháp lý cho mô hình này, đặc biệt là đối với các cơ quan báo chí công lập có đủ năng lực hoạt động đa phương tiện.
Khi đó, ngân sách nhà nước sẽ tập trung hỗ trợ những lĩnh vực báo chí công ích, báo chí chính trị - tư tưởng, còn các cơ quan khác có thể vận hành theo mô hình “báo chí công - tư hợp tác”, vừa bảo đảm nhiệm vụ chính trị, vừa phát triển thị trường.
Thứ ba, sáng tạo và chuyển đổi số phải trở thành động lực trung tâm. Trong kỷ nguyên dữ liệu, nội dung không còn là đích đến duy nhất, mà là nền tảng để xây dựng các giá trị gia tăng. Các tòa soạn cần đầu tư vào trí tuệ nhân tạo, phân tích dữ liệu, cá nhân hóa nội dung, sản xuất đa định dạng (text, audio, video, graphic, interactive) và phát triển thương hiệu trên môi trường số.
Nhà nước cần có chính sách khuyến khích đổi mới sáng tạo trong báo chí, thúc đẩy liên kết giữa cơ quan báo chí và doanh nghiệp công nghệ, hình thành hệ sinh thái truyền thông sáng tạo Việt Nam có khả năng cạnh tranh trong khu vực.
Bên cạnh đó, nguồn nhân lực báo chí phải được xem là tài sản quan trọng nhất. Một nền báo chí mạnh không chỉ cần phóng viên giỏi, mà cần người làm truyền thông có tư duy công dân, năng lực sáng tạo, đạo đức nghề nghiệp và tinh thần phụng sự công chúng. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng nhà báo trong thời kỳ chuyển đổi số cần được quy định cụ thể, gắn với tiêu chuẩn nghề nghiệp quốc tế và yêu cầu của nền kinh tế tri thức.
Phát triển kinh tế báo chí không có nghĩa là thương mại hóa báo chí. Mục tiêu của kinh tế báo chí là tạo điều kiện để báo chí tồn tại và phát triển một cách độc lập, bền vững, trên nền tảng giá trị công ích. Một cơ quan báo chí có khả năng tự chủ tài chính sẽ có thêm không gian sáng tạo, giảm bớt gánh nặng ngân sách, đồng thời tăng tính chuyên nghiệp và trách nhiệm với công chúng.
Khi báo chí có thể “sống được bằng nghề”, người làm báo sẽ toàn tâm với nghề, không bị chi phối bởi lợi ích bên ngoài và xã hội sẽ được hưởng lợi từ thông tin chuẩn xác, nhân văn và có chiều sâu.
Về mặt tổ chức, báo chí Việt Nam cần tiếp tục tiến trình hội tụ truyền thông, xây dựng các tòa soạn hội tụ, nơi báo in, phát thanh, truyền hình và báo điện tử được tích hợp trên cùng một nền tảng nội dung. Mô hình này không chỉ nâng cao năng suất lao động, mà còn tạo nên khả năng phản ứng nhanh, đa dạng hóa kênh phân phối và tăng giá trị thương hiệu.
Nhưng để mô hình này phát huy hiệu quả, cần có cơ chế rõ ràng về kinh tế báo chí. Đây là lĩnh vực còn thiếu khung pháp lý và tiêu chí minh bạch. Luật Báo chí (sửa đổi) cần quy định rõ nguồn thu hợp pháp, cơ chế đầu tư, chính sách thuế, quản lý quảng cáo, khai thác bản quyền nội dung, hợp tác quốc tế, cũng như cơ chế giám sát để bảo đảm tính công khai, minh bạch và không thương mại hóa thông tin công.
Cùng với đó, cần có Quỹ hỗ trợ phát triển báo chí, tương tự như Quỹ điện ảnh hoặc Quỹ văn hóa sáng tạo, nhằm tài trợ cho các dự án báo chí điều tra, phóng sự nhân văn, nghiên cứu khoa học và đổi mới công nghệ truyền thông.
Đây cũng là cơ hội để Việt Nam xây dựng “nền kinh tế nội dung số quốc gia”, trong đó, báo chí là trung tâm sản xuất và lan tỏa giá trị. Với hơn 70% dân số sử dụng Internet, gần 60 triệu tài khoản mạng xã hội, Việt Nam đang sở hữu một thị trường truyền thông khổng lồ, nhưng phần lớn doanh thu quảng cáo trực tuyến hiện vẫn chảy ra các nền tảng xuyên biên giới. Đã đến lúc Nhà nước cần có chính sách bảo vệ không gian truyền thông trong nước, yêu cầu các nền tảng xuyên biên giới phải tuân thủ quy định về nội dung, thuế và bản quyền; đồng thời hỗ trợ cơ quan báo chí Việt Nam phát triển nền tảng nội dung số mang bản sắc Việt.
Trong tầm nhìn xa hơn, phát triển kinh tế báo chí chính là góp phần phát triển công nghiệp văn hóa và kinh tế sáng tạo của quốc gia. Báo chí không chỉ cung cấp thông tin, mà còn sáng tạo giá trị, truyền cảm hứng, định hình lối sống và thị hiếu. Khi mỗi tờ báo, mỗi sản phẩm truyền thông trở thành một thương hiệu văn hóa, thì báo chí không chỉ là “công cụ”, mà là một ngành kinh tế - văn hóa, góp phần nâng cao vị thế Việt Nam trong chuỗi giá trị truyền thông toàn cầu.
Dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi) lần này vì thế cần được coi là cơ hội tái định vị vai trò của báo chí trong kỷ nguyên mới. Luật không chỉ là khung pháp lý để quản lý, mà phải là tầm nhìn chiến lược để phát triển. Một nền báo chí mạnh phải có cơ sở pháp lý mạnh - đủ linh hoạt để thích ứng, đủ chặt chẽ để bảo vệ giá trị cốt lõi và đủ mở để khích lệ sáng tạo.
































