Phát lộ điểm nghẽn cản trở doanh nghiệp tư nhân
Sự phát triển của lực lượng doanh nghiệp tư nhân ở Đồng bằng sông Cửu Long chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của vùng. Hệ thống rào cản mang tính cấu trúc, kéo dài qua nhiều thập niên đang cản trở năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Nhiều thách thức
Ngày 13/12, Học viện Chính trị khu vực IV phối hợp Trường Chính trị thành phố Cần Thơ tổ chức tọa đàm Phát triển doanh nghiệp (DN) tư nhân ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) theo tinh thần Nghị quyết 68-NQ/TW.

Quang cảnh tọa đàm.
TS. Nguyễn Thị Tuyết Loan - Hiệu trưởng Trường Chính trị TP. Cần Thơ - cho biết, vùng ĐBSCL có tiềm năng lớn về nông nghiệp, thủy sản, công nghiệp chế biến, năng lượng tái tạo, dịch vụ logistics, du lịch sinh thái. Tuy nhiên, vùng cũng đối mặt với nhiều thách thức, như: Kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ, đặc biệt giao thông và logistics; biến đổi khí hậu diễn biến hết sức phức tạp; trình độ công nghệ của DN còn thấp; năng lực quản trị, liên kết chuỗi giá trị còn yếu; quy mô DN nhỏ và siêu nhỏ chiếm đa số; thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao... Những hạn chế này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả và sức cạnh tranh của DN trong vùng.
Theo TS. Huỳnh Thanh Hiếu - Phó Hiệu trưởng Trường Chính trị TP. Cần Thơ, số lượng DN của vùng ĐBSCL không ngừng gia tăng, tuy nhiên tỷ trọng so với cả nước thì còn khiêm tốn (khoảng 7,4%), năm 2024 cả nước có gần 940.100 DN, trong đó vùng ĐBSCL có gần 70.700 DN.
Về mật độ, DN vùng ĐBSCL hiện có khoảng 3,2 DN/1.000 dân, thấp hơn đáng kể so với vùng Đồng bằng sông Hồng (10,5 DN/1.000 dân), Đông Nam Bộ (17,5 DN/1.000 dân), cho thấy dư địa phát triển rất lớn cho DN của vùng.
Theo ông Hiếu, mặc dù DN của ĐBSCL có những bước phát triển nhất định, song việc gia tăng số lượng, đặc biệt là các công ty TNHH và DN siêu nhỏ những năm gần đây chủ yếu chuyển đổi mang tính hình thức từ các hộ kinh doanh cá thể. Điều này dẫn đến tình trạng “nở rộ” về số lượng nhưng lại thiếu chiều sâu và tính bền vững trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Kết quả là nhiều đơn vị có quy mô quá nhỏ, hoạt động bấp bênh, hiệu quả sinh lời không cao.
Do đa phần là nhỏ lẻ, DN vùng ĐBSCL gặp bất lợi lớn trong cạnh tranh cả về chất lượng sản phẩm (đặc biệt là nông sản, thủy sản chế biến) và khả năng đàm phán giá cả khi xuất khẩu. Khả năng tham gia sâu vào mạng lưới sản xuất và cung ứng toàn cầu của khu vực này còn rất hạn chế.
Ông Hiếu chỉ rõ, các DN ở ĐBSCL thường gặp nhiều trở ngại khi tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính thức. Sự thiếu hụt vốn trực tiếp cản trở việc mở rộng quy mô, nghiêm trọng hơn là việc ứng dụng các tiến bộ khoa học - công nghệ mới vào quy trình sản xuất (công nghệ sau thu hoạch, chế biến sâu…). Điều này khiến năng suất lao động và năng lực cạnh tranh của khu vực vẫn còn ở mức thấp.
Rào cản kéo dài
Theo ông Trần Hữu Hiệp - Phó Chủ tịch Hiệp hội Du lịch ĐBSCL, các số liệu thống kê cho thấy, có đến 97% DN ở ĐBSCL là DN nhỏ và siêu nhỏ, thiếu nền tảng quản trị, thiếu vốn, thiếu công nghệ, thiếu dữ liệu thị trường và khả năng kết nối vùng, quốc gia, quốc tế. Môi trường kinh doanh tại ĐBSCL cũng đối mặt thách thức từ sự phân mảnh về thể chế với quy hoạch chồng chéo, liên kết vùng yếu kém. Sự khác biệt trong chính sách giữa các địa phương và thủ tục hành chính còn rườm rà cũng tạo ra rào cản.

ĐBSCL có nhiều dư địa phát triển DNTN, song cũng có nhiều điểm nghẽn cần tháo gỡ.
“Việc khắc phục những điểm nghẽn thể chế là cần thiết để kinh tế tư nhân thực sự trở thành động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, như tinh thần Nghị quyết 68 NQ/TW đã đề ra” - TS Hiệp nhận định.
Bà Lý Thị Hồng An - Học viện Chính trị khu vực IV - cho rằng, sự phát triển của lực lượng DN ở ĐBSCL chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của vùng. Hệ thống rào cản mang tính cấu trúc, kéo dài qua nhiều thập niên, từ hạn chế về hạ tầng giao thông, chi phí logistics cao, khó khăn trong tiếp cận vốn, đến chất lượng nguồn nhân lực, môi trường kinh doanh và biến động thị trường xuất khẩu đang cản trở mạnh mẽ năng lực cạnh tranh của DN.
Theo bà An, nếu không tháo gỡ căn cơ những điểm nghẽn trên, DN ở ĐBSCL khó có thể tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, khó tận dụng các cơ hội từ hội nhập kinh tế quốc tế và càng khó thích ứng với các yêu cầu tiêu chuẩn xanh, số hóa và đổi mới công nghệ. Điều đó không chỉ kìm hãm tăng trưởng của DN, còn ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng chuyển đổi mô hình tăng trưởng của cả vùng.
Để thúc đẩy DN phát triển mạnh mẽ và bền vững, theo Ths An, cần sự vào cuộc đồng bộ của Nhà nước, DN và hệ thống các chủ thể trong nền kinh tế vùng. Nếu triển khai đồng bộ và nhất quán, ĐBSCL hoàn toàn có thể tạo bước chuyển căn bản trong môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của DNTN, từ đó đóng góp quan trọng vào mục tiêu phát triển nhanh và bền vững của vùng trong giai đoạn mới.
Liên kết vùng - yêu cầu tất yếu
ĐBSCL đóng góp hơn một nửa sản lượng lúa, 65% sản lượng thủy sản nuôi trồng và 70% trái cây cả nước. Tuy nhiên, khu vực DN tư nhân vẫn phát triển chậm, quy mô nhỏ, năng suất thấp và thiếu liên kết chuỗi. Một trong những nguyên nhân căn bản là liên kết nội vùng yếu, các tỉnh phát triển rời rạc, còn tình trạng “mạnh ai nấy làm”, thiếu những dự án chung mang tính liên tỉnh. Liên kết vùng là yêu cầu tất yếu để phát triển DN ở ĐBSCL trong bối cảnh mới sau sáp nhập.




























