Đi để thấy mình còn những điều phải nghĩ, phải làm
Lần thứ 2 đặt chân về Khu di tích Quốc gia đặc biệt Tân Trào (Tuyên Quang), trong tôi vẫn còn nguyên vẹn những cảm xúc bồi hồi như lần đầu tiên cách đây hơn 16 năm. Trên vùng đất linh thiêng này, nơi Bác Hồ và các bậc tiền bối cách mạng từng sống, làm việc và lãnh đạo cuộc kháng chiến mang tính bước ngoặt cho dân tộc, dường như vẫn lưu giữ những dư âm lịch sử không phai…

Lâm Đồng tiếp nhận số tiền 3 tỷ đồng từ tỉnh kết nghĩa Tuyên Quang
Lời dặn của Tổng Biên tập
Lần đầu tôi đến Tân Trào là năm 2009, trong chuyến công tác cùng cô Trần Thị Thái Hòa - nguyên Tổng Biên tập Báo Bình Thuận (cũ). Khi xe vừa đến huyện Sơn Dương, cô đã nói với tôi bằng giọng chắc nịch mà đầy cảm xúc: “Làm báo Đảng, đến Tuyên Quang là phải đến Tân Trào. Không đến, không hình dung hết cha ông đã trải qua những gian khổ gì để có được ngày hôm nay”.
Về sau, mỗi khi có phóng viên trẻ hay ai trong đoàn công tác đến tỉnh kết nghĩa Tuyên Quang, nhưng chưa từng đi đến Tân Trào, cô lại dành thời gian để đi về Khu di tích. Với cô, đó không chỉ là điểm đến, mà là lớp học sống động về truyền thống cách mạng, là nơi “rèn thêm ý chí và trách nhiệm của người làm báo cách mạng”.
Trong chuyến đi ấy, tôi càng hiểu sâu sắc hơn câu chuyện kết nghĩa giữa Bình Thuận (cũ), Lâm Đồng hôm nay và Tuyên Quang. Khi ấy, việc kết nghĩa là sự kiện đầy ý nghĩa trong bối cảnh cả nước bước vào giai đoạn hết sức khốc liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Cụ thể, năm 1960, khi cách mạng miền Nam chuyển hướng từ đấu tranh chính trị sang đấu tranh vũ trang, miền Bắc trở thành hậu phương lớn chi viện cho tiền tuyến. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng phát động phong trào Kết nghĩa Bắc - Nam, gắn bó các địa phương như ruột thịt, thể hiện chân lý bất biến: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”.
Tuyên Quang - thủ đô kháng chiến đã giải phóng, nơi ươm mầm cách mạng đã kết nghĩa với Bình Thuận, vùng đất kiên trung, khi ấy đang đứng trước muôn vàn khó khăn, thử thách. Ngay trước lễ kết nghĩa, phong trào “Vì miền Nam ruột thịt, vì Bình Thuận kết nghĩa, vì sự thống nhất Tổ quốc”, lan tỏa sâu rộng trong mọi tầng lớp Nhân dân tỉnh Tuyên Quang. Và sau lễ kết nghĩa ngày 3/4/1960, từ địa phương, cơ quan, đơn vị đến thôn bản, từ lớp học đến nhà máy, tinh thần hướng về Bình Thuận càng được đẩy mạnh, trở thành biểu tượng đẹp của nghĩa tình Bắc - Nam trong những năm tháng khốc liệt của chiến tranh. Đến mãi bây giờ, Tuyên Quang và Bình Thuận giờ là Lâm Đồng vẫn sắt son, kết nghĩa keo sơn, trước sau như một. Điều ấy thể hiện rõ trong đợt thiệt hại lớn nhất sau hơn 30 năm do mưa lũ vừa qua, Nhân dân các dân tộc anh em tỉnh Tuyên Quang dù đang còn nhiều khó khăn cũng đã vào thăm hỏi, trao tận tay hỗ trợ cho Lâm Đồng số tiền 3 tỷ đồng để khắc phục hậu quả do thiên tai gây ra. Tình cảm ấy có lẽ chỉ xuất phát từ sự hun đúc bằng niềm tin, bằng trách nhiệm và bằng cả mồ hôi, nước mắt của Nhân dân 2 tỉnh qua nhiều thế hệ.

Biên tập viên, phóng viên Báo Lâm Đồng chụp hình lưu niệm tại đình Tân Trào, nơi được Bác Hồ và Trung ương Đảng chọn làm nơi tổ chức họp Quốc dân Đại hội trong 2 ngày 16 và 17/ 8/1945
Tự hào Tân Trào hôm nay
Trong chuyến trở lại Tuyên Quang vừa qua, đi trên những con đường trải nhựa quanh co nhưng phẳng lỳ, qua các địa phương để đến với Tân Trào, xen vào đó là những khu dân cư đông đúc, nhà cửa khang trang, chúng tôi đã cảm nhận phần nào được sự đổi thay, vươn lên trong khó khăn bằng nội lực của người dân vùng cách mạng.
Trò chuyện với chúng tôi, anh Quang Hòa, phóng viên Báo Tuyên Quang - người đồng hành cùng đoàn trong suốt hành trình về nguồn tại Tân Trào, với niềm tự hào lấp lánh trong ánh mắt: “Rất vinh dự khi được dẫn nhiều đoàn nhà báo về Tân Trào. Hầu hết mỗi đoàn khi đến Tuyên Quang đều muốn về nguồn tại Khu di tích như cách để báo công, để tự nhắc mình sống xứng đáng với cha anh. Mỗi lần như vậy, tôi lại thấy tự hào hơn khi được sống và lập nghiệp trên mảnh đất Tuyên Quang, cái nôi của truyền thống cách mạng Việt Nam”. Lời anh Hòa nói giản dị nhưng gợi mở nhiều suy ngẫm: người dân Tuyên Quang hôm nay không chỉ tự hào vì quá khứ, họ sống với quá khứ ấy mà còn giữ gìn nó bằng tình cảm chân thành, bằng những việc làm cụ thể mỗi ngày, để giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ sau.

Khách về nguồn chụp hình lưu niệm tại Khu di tích Tân Trào
Vĩ đại từ những điều giản dị
Trong muôn vàn di tích ở Tân Trào, lán Nà Nưa có lẽ là nơi khiến tôi và những người khác lặng người nhiều nhất.
Căn lán nhỏ nép dưới tán rừng, chỉ 2 gian đơn sơ bằng tre nứa. Vậy mà tại đây, từ tháng 5/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống, làm việc và soạn thảo những văn kiện quyết định vận mệnh của cả dân tộc. Từ đây, những chủ trương, kế hoạch cho Tổng khởi nghĩa Tháng Tám đã ra đời và như chúng ta đã biết kết quả về sau. Giữa núi rừng im phăng phắc, những người con phương Nam như chúng tôi cùng đoàn như nghe thấy tiếng bút của Người, từng nét viết nên trang sử vàng của dân tộc. Chúng tôi được nghe hướng dẫn viên kể câu chuyện về Bác trong lúc thập tử nhất sinh được cứu giúp nhờ bài thuốc dân gian của người địa phương, qua đó thể hiện sự gắn kết, đùm bọc của người dân, sự hi sinh vì độc lập dân tộc và nghị lực phi thường của Bác. Dù ốm đau, Bác vẫn lo cho cách mạng, như lời dặn “dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành được độc lập”. Chính sự giản dị, vì nước, vì dân ấy đã làm nên sự vĩ đại của Bác trong lòng Nhân dân cho đến ngày nay.
Từ lán Nà Nưa đến đình Hồng Thái, đình Tân Trào hay cây đa lịch sử… mỗi di tích đều là một lớp trầm tích thời gian, là tiếng vọng của một dân tộc đã đứng dậy từ gian khó để đi đến độc lập. Đi giữa Tân Trào, đoàn chúng tôi hiểu sâu sắc rằng, còn những điều phải nghĩ, phải làm cho hôm nay và cho thế hệ mai sau trước sự cống hiến và hi sinh của Bác cùng các tiền bối cách mạng cho độc lập, tự do của dân tộc.
Điều đó thức dậy trong mỗi thành viên trong đoàn về ý thức giữ gìn truyền thống, nuôi dưỡng lý tưởng, làm tốt hơn công việc của mình, đó chính là cách mỗi chúng ta báo công với cha anh; cũng là cách xứng đáng nhất mỗi khi trở về đứng giữa vùng đất cách mạng Tân Trào...
Khu di tích Quốc gia đặc biệt Tân Trào, trải rộng trên địa bàn 11 xã của huyện Sơn Dương và huyện Yên Sơn (cũ), với 138 di tích, cụm di tích. Khu di tích được Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng là Di tích Quốc gia đặc biệt ngày 10/5/2012. Khu di tích là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các cơ quan Trung ương ở
và làm việc trong thời kỳ tiền khởi nghĩa và thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, gồm các di tích tiêu biểu như: Đình Hồng Thái, Cụm di tích Nà Nưa, Đình Tân Trào, Cây đa Tân Trào…

































