Đề xuất tước bỏ chức danh, học vị đối với người vi phạm nghiêm trọng liêm chính khoa học
Để tăng cường đấu tranh và xây dựng môi trường học thuật trong sạch, cần triển khai các giải pháp toàn diện từ nhiều cấp độ.
Các nội dung liên quan đến liêm chính khoa học trong Dự thảo Nghị định Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo về thông tin, thống kê, đánh giá, chuyển đổi số và các vấn đề chung doBộ Khoa học và Công nghệ công bố đang thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học và xã hội.
Một số chuyên gia đã đưa ra phân tích toàn diện hơn về vấn đề liêm chính khoa học ở Việt Nam hiện nay đồng thời góp ý hoàn thiện Dự thảo Nghị định.
Áp lực thành tích là một trong số nguyên nhân dẫn đến vi phạm liêm chính
Đề cập đến nguyên nhân của tình trạng vi phạm liêm chính khoa học, trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Duy Phương - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Luật (Đại học Huế) cho biết: “Các hành vi vi phạm liêm chính khoa học ở Việt Nam rất đa dạng, có thể bắt nguồn từ những lý do sau. Đầu tiên là khoảng trống pháp lý và chế tài xử lý chưa đủ mạnh. Mặc dù đã có một số văn bản quy định về liêm chính học thuật, nhưng còn tương đối chung chung và chưa có khung pháp lý đầy đủ, chi tiết.
Từ đó dẫn đến việc xử lý các vi phạm gặp nhiều khó khăn, chưa đủ sức răn đe, cũng tạo kẽ hở cho các hành vi vi phạm. Việc thiếu một bộ quy tắc ứng xử chung, cụ thể cho từng lĩnh vực cũng góp phần làm gia tăng hành vi sai phạm.
Cùng với đó là thiếu cơ chế kiểm soát và giám sát hiệu quả. Việc kiểm tra, rà soát các công trình nghiên cứu để phát hiện vi phạm còn chưa được thực hiện một cách thường xuyên và triệt để. Sự phát triển của công nghệ, sử dụng các công cụ AI trong nghiên cứu và xuất bản khoa học, nếu không được kiểm soát chặt chẽ, có thể dẫn đến các hành vi tự đạo văn hoặc giả mạo.
Tiếp theo, hệ thống đánh giá các nhà khoa học và sản phẩm khoa học vẫn còn phụ thuộc nhiều vào các chỉ số định lượng như số lượng bài báo quốc tế mà chưa có sự kết hợp nhuần nhuyễn với đánh giá chất lượng từ các chuyên gia.
Các quy định hiện hành về xét duyệt chức danh giáo sư, phó giáo sư, hoặc các tiêu chí để nhận tài trợ dự án nghiên cứu cũng thường đặt nặng số lượng công bố quốc tế. Điều này vô tình tạo áp lực và khuyến khích các hành vi vi phạm để chạy theo thành tích.
Ngoài ra, nhận thức về liêm chính khoa học ở một bộ phận các nhà nghiên cứu, giảng viên và sinh viên còn chưa đồng đều và còn thiếu sự rèn luyện và bồi dưỡng về đạo đức nghề nghiệp.
Đặc biệt, thu nhập từ hoạt động nghiên cứu khoa học ở Việt Nam còn thấp, chưa đủ để đảm bảo cuộc sống cho nhiều nhà khoa học khiến họ phải tìm cách làm thêm hoặc tham gia vào các hoạt động "bán" bài báo để có thêm thu nhập".
Bàn về các hành vi vi phạm liêm chính khoa học được nêu tại Khoản 1, Điều 6 của Dự thảo Nghị định như: Ngụy tạo dữ liệu, kết quả nghiên cứu; Giả mạo dữ liệu; Đạo văn dưới mọi hình thức; Ghi tên tác giả không đúng thực tế hoặc loại bỏ tác giả có đóng góp thực sự; Cản trở, đe dọa, ép buộc, can thiệp vào quá trình đánh giá, phản biện, xét duyệt bản thảo công bố khoa học…
Theo thầy Phương, Dự thảo Nghị định đã bao quát được nhiều vấn đề cốt lõi. Đây là những hành vi vi phạm liêm chính phổ biến và nghiêm trọng trên thế giới, cũng như ở Việt Nam. Tuy nhiên, nếu xem xét kỹ, Dự thảo Nghị định vẫn có thể chưa phản ánh đầy đủ một số vấn đề thực tiễn đang xảy ra trong giới nghiên cứu Việt Nam.
Đó là tình trạng chia nhỏ công bố, một nghiên cứu có thể bị "cắt nhỏ" thành nhiều bài báo để tăng số lượng công bố, dù nội dung có thể trùng lặp hoặc không đủ sâu. Hành vi này giúp nhà khoa học đạt đủ tiêu chí về số lượng bài báo để xét duyệt chức danh hay đề tài nhưng lại làm giảm giá trị và uy tín của nghiên cứu.
Còn có tình trạng "mua" tên tác giả trên bài báo khoa học, đặc biệt là trên một số tạp chí quốc tế, đã trở thành một "thị trường ngầm". Họ không tham gia vào nghiên cứu nhưng vẫn có tên trên công bố, nhằm đáp ứng các tiêu chíxét duyệt.
Bên cạnh đó còn có hành động tự đạo văn, tái sử dụng chính bài viết của mình đã công bố trước đó mà không trích dẫn hoặc chú thích đầy đủ.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Duy Phương nói thêm: "Trong thực tế, nhà nghiên cứu ở Việt Nam thường mắc phải hai hành vi vi phạm phổ biến là đạo văn và ghi tên tác giả không đúng thực tế.
Đạo văn là vấn đề nghiêm trọng, đặc biệt là trong các công trình luận văn, luận án và bài báo khoa học. Nguyên nhân chủ yếu do áp lực về thời gian, thiếu kỹ năng trích dẫn hoặc do sự thiếu trung thực. Hành động thêm tên người không có đóng góp vào công trình để trả ơn hoặc để "làm đẹp" hồ sơ xảy ra khá phổ biến. Ngược lại, loại bỏ tên những người có đóng góp thực sự cũng không phải tình trạng hiếm gặp".

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Duy Phương - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Luật (Đại học Huế). Ảnh: NVCC.
Tăng cường chế tài xử phạt đủ sức răn đe, thậm chí tước bỏ chức danh, học vị
Phân tích sâu hơn về các chế tài xử lý vi phạm liêm chính khoa học hiện nay, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Duy Phương cho biết, các chế tài xử lý hiện có, bao gồm xử lý kỷ luật hoặc các hình thức khác theo quy định, chưa thực sự phát huy tác dụng ngăn ngừa một cách triệt để. Mặc dù có tính răn đe, nhưng vẫn tồn tại nhiều hạn chế.
Một số trường hợp, hình thức kỷ luật chưa tương xứng với mức độ nghiêm trọng của hành vi, khiến người vi phạm dễ dàng "lách luật" hoặc tiếp tục các hành vi thiếu liêm chính. Việc phát hiện và chứng minh hành vi vi phạm liêm chính khoa học (như đạo văn, giả mạo số liệu) rất khó khăn, đòi hỏi quy trình phức tạp và tốn kém.
Để tăng cường đấu tranh và xây dựng một môi trường học thuật trong sạch, thầy Phương đề xuất cần triển khai các giải pháp toàn diện từ nhiều cấp độ.
Cần ban hành các quy định chi tiết, thống nhất và mạnh mẽ hơn về liêm chính khoa học, với các chế tài xử phạt đủ sức răn đe, thậm chí tước bỏ các chức danh, học vị vĩnh viễn đối với những vi phạm nghiêm trọng.
Thành lập các Hội đồng đạo đức khoa học độc lập, có thẩm quyền và đủ năng lực để kiểm tra, đánh giá các công trình nghiên cứu một cách định kỳ và đột xuất.
Sử dụng các phần mềm chuyên biệt để phát hiện đạo văn, giả mạo số liệu hoặc các hành vi gian lận khác.
Tăng cường giáo dục về đạo đức khoa học ngay từ bậc đại học, xây dựng văn hóa liêm chính trong toàn bộ cộng đồng khoa học.
Bên cạnh đó, đối với mỗi cơ sở giáo dục đại học, viện nghiên cứu, bên cạnh các quy định chung, mỗi cơ sở cần xây dựng Bộ quy tắc ứng xử về liêm chính khoa học riêng, cụ thể hóa cho từng lĩnh vực chuyên môn.
Các quy định này có thể bao gồm: Quy trình xét duyệt đề tài, công bố công trình chặt chẽ; Cơ chế báo cáo và xử lý các hành vi vi phạm một cách minh bạch, công khai; Hệ thống khuyến khích và tôn vinh các nhà khoa học có thành tích xuất sắc và tuân thủ đạo đức nghề nghiệp.
Đối với bản thân mỗi nhà nghiên cứu phải tự đặt ra những trách nhiệm cá nhân nghiêm ngặt. Đây không chỉ là việc tuân thủ các quy tắc mà còn là sự tự giác, trung thực và liêm khiết trong từng công đoạn của quá trình nghiên cứu.
Trách nhiệm này bao gồm: Không làm sai lệch, giả mạo hay bóp méo số liệu để đạt được kết quả mong muốn; Luôn trích dẫn đầy đủ và chính xác các nguồn tham khảo, công nhận công lao của những người đã tham gia hoặc hỗ trợ trong nghiên cứu; Đảm bảo mọi kết quả công bố đều đã được kiểm chứng cẩn thận và sẵn sàng chịu trách nhiệm trước cộng đồng khoa học.
Ở góc nhìn khác, Giáo sư, Tiến sĩ Lê Trần Bình - Chủ tịch Hội các ngành Sinh học Việt Nam nhấn mạnh vai trò của công tác quản lý đầu vào.
Thầy Bình phân tích: "Khái niệm “liêm chính” thông thường được dành cho người có quyền quyết định, ít khi dành cho người thực thi và báo cáo kết quả. Đối với những người thực hiện đề tài khoa học nên dùng khái niệm “trung thực”.
Khái niệm “trung thực” trong khoa học bao trùm và quyết định toàn bộ hoạt động đề xuất, đăng ký thực hiện, hợp tác nghiên cứu, sử dụng nguồn kinh phí, thu nhận xử lý kết quả, báo cáo tổng kết đề tài. Chỉ cần thiếu trung thực trong bất kỳ khâu nào, nếu bị phát hiện, toàn bộ công sức và kết quả sẽ bị ảnh hưởng nặng nề.
“Liêm chính” trong trường hợp này nên dành cho việc đánh giá hành vi của người quản lý, từ bước xem xét đề xuất chương trình đề án đề tài, đến đánh giá xét duyệt đề cương, ký hợp đồng thực hiện và nghiệm thu kết quả.
Những nguyên nhân có thể dẫn đến việc vi phạm liêm chính đó là cán bộ phụ trách vừa thiếu thời gian, vừa thiếu chuyên môn, phụ trách nhiều chương trình trong cùng thời gian; thiếu công cụ chuyên trách (ví dụ, công ty thẩm định độc lập quốc gia và quốc tế); lợi ích nhóm khiến việc chọn nội dung, thẩm định hồ sơ, chọn chủ nhiệm, nghiệm thu kết quả thiếu khách quan.
Chính sự thiếu liêm chính trong quản lý là tiền đề cho thiếu trung thực trong báo cáo. Vậy nên cần quy định và tạo điều kiện cho công tác quản lý đầu vào đạt được mức độ liêm chính tối đa thì đầu ra sẽ đạt được tính trung thực cần thiết".
Thầy Bình khẳng định, phải có công cụ thực thi nhiệm vụ đánh giá, kiểm tra. Đó là những tổ chức độc lập không xung đột quyền lợi, gồm luật sư, nhà khoa học quản lý và chuyên gia.
Các quốc gia phát triển như Mỹ, Đức, Hàn Quốc đều có các công ty giám định khoa học công nghệ làm việc độc lập không thuộc Bộ, ngành. Những đơn vị này sẽ giám định đề xuất vĩ mô như chương trình, kế hoạch dài hạn sau đó giám sát đề xuất, thẩm định...

Giáo sư, Tiến sĩ Lê Trần Bình - Chủ tịch Hội các ngành Sinh học Việt Nam. Ảnh: bio.hnue.edu.vn
Theo quan điểm của Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hồng Thao - Thành viên Ủy ban Luật pháp quốc tế của Liên hợp quốc (ILC): "Liêm chính trong khoa học là nguyên tắc cốt lõi, mang tính truyền thống lâu đời ở các nước phương Tây và đang ngày càng được nhấn mạnh tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Điều này là cần thiết để góp phần xây dựng uy tín cho các nhà khoa học, cơ sở nghiên cứu và hệ thống giáo dục Việt Nam trên trường quốc tế.
Ngoài quy định hiện hành của Bộ Khoa học và Công nghệ, các cơ quan quản lý cũng cần quy định cụ thể hơn để tránh xung đột trong tương lai cũng như tránh trường hợp các nhà nghiên cứu vô tình "đạo ý tưởng". Liêm chính khoa học luôn phải đi cùng sự minh bạch, công bằng".