Đề xuất trao quyền cho Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo trong tuyển dụng, điều động giáo viên
Ở nhóm chính sách về phát triển đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý và nhân lực giáo dục, dự thảo Nghị quyết trao thẩm quyền cho Giám đốc Sở trong tuyển dụng, điều động, biệt phái để bảo đảm thống nhất quản lý nhân lực ngành.
Điều chỉnh 6 nhóm chính sách trọng tâm
Sáng 17/11, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh trình bày tờ trình về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về những cơ chế, chính sách đặc thù để thực hiện Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.

Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh trình bày tờ trình. Ảnh: Quochoi.vn
Theo đó, việc ban hành Nghị quyết nhằm thể chế hóa kịp thời, đầy đủ và hiệu quả các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đột phá được nêu tại Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị; tạo hành lang pháp lý đặc thù, vượt trội để Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương triển khai đồng bộ, quyết liệt ngay từ năm 2026.
Đồng thời, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn lớn về thể chế, nhân lực, tài chính và quản trị, khơi thông và huy động hiệu quả mọi nguồn lực, tạo động lực và không gian phát triển mới cho toàn ngành giáo dục.
Thúc đẩy tự chủ đại học thực chất, nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực công nghệ chiến lược, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững đất nước.
Trên cơ sở Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị và thực tiễn triển khai, Bộ GDĐT đề xuất Nghị quyết tập trung điều chỉnh 6 nhóm chính sách trọng tâm, có tác động trực tiếp và tính khả thi cao, gồm: quản lý và phát triển nhân lực ngành giáo dục; chương trình, nội dung và cơ chế phát triển giáo dục; chuyển đổi số, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo; hội nhập quốc tế; tài chính, ưu đãi và đầu tư.
Nguyên tắc lựa chọn nội dung: là những vấn đề có nội dung khác với luật hiện hành hoặc chưa được quy định, thuộc thẩm quyền của Quốc hội; bảo đảm khả thi, có lộ trình, cơ chế kiểm soát và đánh giá độc lập.

Đại biểu Quốc hội tham dự phiên làm việc sáng 17/11. Ảnh: Quochoi.vn
Mở rộng hợp tác đào tạo, thúc đẩy “xuất khẩu giáo dục”
Dự thảo Nghị quyết gồm 11 điều, trong đó điều 1 quy định phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng; điều 2 quy định nguyên tắc áp dụng một số cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo; điều 3 đến điều 8 quy định 5 nhóm chính sách cơ bản; điều 9 quy định về tổ chức thực hiện...
Dự thảo Nghị quyết đề xuất nhóm chính sách nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước gồm:
Nhóm chính sách về phát triển đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý và nhân lực giáo dục: thể chế hóa phần III Nghị quyết 71-NQ/TW, quy định các chính sách ưu đãi đặc thù, vượt trội cho đội ngũ nhà giáo và nhân viên trong các cơ sở giáo dục; trao thẩm quyền cho Giám đốc Sở trong tuyển dụng, điều động, biệt phái để bảo đảm thống nhất quản lý nhân lực ngành; đồng thời, ban hành cơ chế thu hút, trọng dụng và phát triển nhân lực chất lượng cao trong giảng dạy, nghiên cứu, quản lý.
Nhóm chính sách về đổi mới cơ chế, chương trình và hệ thống giáo dục: Thể chế hóa phần III Nghị quyết 71-NQ/TW, quy định cơ chế bảo đảm quyền tự chủ toàn diện cho các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; đổi mới chương trình giáo dục mầm non, phổ thông, đại học và giáo dục thường xuyên; tổ chức sử dụng thống nhất một bộ sách giáo khoa trên toàn quốc...

Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội Nguyễn Đắc Vinh trình bày báo cáo thẩm tra. Ảnh: Quochoi.vn
Nhóm chính sách về khoa học, công nghệ và chuyển đổi số trong giáo dục:Thể chế hóa phần III Nghị quyết 71-NQ/TW, quy định cơ chế đẩy mạnh chuyển đổi số toàn diện trong quản lý, giảng dạy, học tập, kiểm định; phát triển nền tảng giáo dục thông minh và cơ sở dữ liệu quốc gia về giáo dục...
Nhóm chính sách về hợp tác và hội nhập quốc tế trong giáo dục và đào tạo: Thể chế hóa phần III Nghị quyết 71-NQ/TW, quy định cơ chế thu hút, sử dụng chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài; khuyến khích liên kết, thành lập phân hiệu cơ sở giáo dục nước ngoài tại Việt Nam và cơ sở giáo dục Việt Nam ở nước ngoài; mở rộng hợp tác đào tạo, thúc đẩy “xuất khẩu giáo dục”, nâng cao vị thế giáo dục Việt Nam trong khu vực và quốc tế.
Dự thảo Nghị quyết cũng quy định những vấn đề chưa được pháp luật quy định như:cơ chế về chuyển đổi số, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong giáo dục, trong đó thiết lập khuôn khổ pháp lý cho hoạt động này, cho phép xã hội hóa, liên kết công - tư, phát triển hạ tầng số và cơ sở dữ liệu giáo dục quốc gia.
Bổ sung thêm khoản 5 điều 7 về miễn phí sách giáo khoa cho học sinh cơ sở giáo dục phổ thông (hoàn thành vào năm 2030) và miễn học phí, giáo trình môn Giáo dục quốc phòng và an ninh tại cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Giao Chính phủ quy định lộ trình, bảo đảm phù hợp với khả năng cân đối ngân sách Nhà nước, pháp luật liên quan và yêu cầu bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục.

Quang cảnh phiên làm việc sáng 17/11. Ảnh: Quochoi.vn
Có cơ chế giám sát, kiểm tra minh bạch, tránh tiêu cực trong tuyển dụng, điều động
Thẩm tra về nội dung này, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội Nguyễn Đắc Vinh cho biết, Ủy ban cơ bản tán thành với nhiều cơ chế, chính sách quy định tại điều 2 dự thảo Nghị quyết quy định về phát triển nguồn nhân lực ngành giáo dục và lưu ý: việc quy định thẩm quyền của Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo trong điều động, thuyên chuyển, biệt phái, bố trí, phân công, thay đổi vị trí việc làm đối với nhà giáo, cán bộ quản lý cơ sở giáo dục và nhân viên trong các cơ sở giáo dục công lập liên quan đến phạm vi từ 2 đơn vị hành chính cấp xã trở lêntại điểm a khoản 1 chưa chặt chẽ, có thể hiểu là “2 xã” cùng địa bàn tỉnh hoặc thuộc 2 tỉnh. Vì vậy, đề nghị cân nhắc chỉnh lý, quy định rõ theo hướng giữa các đơn vị hành chính cấp xã trong cùng 1 tỉnh.
Đồng thời, đề nghị cân nhắc quy định cụ thể cơ chế giám sát, kiểm tra, báo cáo định kỳ bảo đảm minh bạch, công bằng trong tuyển dụng, điều động, thuyên chuyển nhân sự giáo dục, tránh nguy cơ tiêu cực, cục bộ.
Ủy ban cũng đề nghị làm rõ quy định các địa phương có điều kiện thì sẽ thực hiện miễn phí sách giáo khoa từ năm học 2026-2027tại khoản 1 để tránh hiểu sai thành ưu tiên cung cấp miễn phí sách giáo khoa trước cho học sinh các địa phương có điều kiện thay vì ưu tiên cho học sinh vùng khó khăn. Cân nhắc quy định cơ chế Nhà nước khuyến khích thu hút nguồn lực của xã hội và của địa phương có điều kiện hỗ trợ cho địa phương khó khăn để triển khai thực hiện chủ trương này.































