Đề xuất quy định về niêm phong tang vật vi phạm hành chính

Bộ Công an lấy ý kiến dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 138/2021, trong đó bổ sung quy định chi tiết việc niêm phong tang vật bị tạm giữ.

Bộ Công an đang lấy ý kiến góp ý về dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 138/2021/NĐ-CP về quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, tịch thu và giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ theo thủ tục hành chính.

Dự thảo bổ sung hai quy định quan trọng, chi tiết hóa quy trình niêm phong tang vật bị tạm giữ và xử lý tang vật khi không xác định được chủ sở hữu hợp pháp.

 Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 138/2021 bổ sung quy định chi tiết việc niêm phong tang vật bị tạm giữ và xử lý khi không xác định được chủ sở hữu. Ảnh: HUỲNH THƠ

Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 138/2021 bổ sung quy định chi tiết việc niêm phong tang vật bị tạm giữ và xử lý khi không xác định được chủ sở hữu. Ảnh: HUỲNH THƠ

Trong dự thảo, Bộ Công an đề xuất bổ sung Điều 11a quy định cụ thể về việc niêm phong tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ nhằm hướng dẫn khoản 5a Điều 125 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành hành chính.

Theo đó, tang vật, phương tiện vi phạm hành chính khi bị tạm giữ (trừ trường hợp tang vật là hàng hóa dễ hư hỏng, động vật sống...) phải được người có thẩm quyền tạm giữ tổ chức thực hiện niêm phong để đưa vào nơi tạm giữ quản lý, bảo quản.

Tang vật, phương tiện bị tạm giữ được niêm phong bằng hình thức đóng gói, đóng hộp, đưa vào thùng hoặc các hình thức khác và dán giấy niêm phong đè lên những phần có thể mở để lấy, đổi tang vật, phương tiện hoặc có thể tác động làm thay đổi tính nguyên vẹn của tang vật, phương tiện.

Trường hợp tang vật, phương tiện có khối lượng, kích thước lớn hoặc không thể di chuyển được thì dán giấy niêm phong lên từng phần hoặc trên những bộ phận quan trọng của tang vật, phương tiện; đối với tang vật, phương tiện có thể sử dụng khóa, kẹp dây chì, dây thép và các hình thức khác để bao bọc sau đó dán giấy niêm phong.

Đối với tang vật, phương tiện không thể niêm phong được tại hiện trường thì phải niêm phong từng phần hoặc những phần quan trọng, sau đó đưa về nơi tạm giữ tang vật, phương tiện để tiến hành niêm phong các vị trí cần thiết.

Giấy niêm phong sử dụng để niêm phong tang vật, phương tiện bị tạm giữ phải có độ bền cao, trên giấy niêm phong ghi tên cơ quan, tổ chức chủ trì, thời gian tổ chức niêm phong, họ tên, chữ ký hoặc điểm chỉ của những người tham gia thực hiện niêm phong tang vật, phương tiện bị tạm giữ. Đồng thời, phải có đóng dấu của cơ quan, tổ chức thực hiện niêm phong hoặc dấu của chính quyền xã, phường, đặc khu nơi tổ chức thực hiện niêm phong vào giấy niêm phong.

Về trình tự, thủ tục niêm phong, mở niêm phong tang vật, phương tiện bị tạm giữ, có một nội dung đáng chú ý là đại diện gia đình người vi phạm, đại diện tổ chức, chính quyền cấp xã, người chứng kiến có trách nhiệm tham gia niêm phong tang vật, phương tiện bị tạm giữ khi có đề nghị của người có thẩm quyền tạm giữ tổ chức thực hiện niêm phong tang vật, phương tiện.

Cụ thể: chứng kiến quá trình niêm phong; ký, ghi rõ họ tên hoặc điểm chỉ vào giấy niêm phong, biên bản niêm phong tang vật, phương tiện.

 Hình ảnh về phương tiện vi phạm hành chính tại một điểm tạm giữ xe tại TP.HCM. Ảnh: THY NHUNG

Hình ảnh về phương tiện vi phạm hành chính tại một điểm tạm giữ xe tại TP.HCM. Ảnh: THY NHUNG

Dự thảo quy định việc thay thế, bỏ cụm từ tại các điểm, khoản, điều như sau:

Thay thế cụm từ “UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương” bằng cụm từ “UBND tỉnh, thành phố” tại các điểm a, b, c khoản 5 và khoản 6 Điều 6;

Thay thế cụm từ “UBND xã, phường, thị trấn” bằng cụm từ “UBND xã, phường, đặc khu” tại khoản 3 Điều 14;

Thay thế cụm từ “Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương” bằng cụm từ “Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố” tại Điều 19;

Bỏ cụm từ “Cá nhân vi phạm khi gửi đơn phải gửi bản sao kèm theo bản chính để đối chiếu hoặc bản sao có công chứng, chứng thực CMND hoặc thẻ CCCD hoặc giấy xác nhận về nơi công tác của cơ quan, tổ chức nơi cá nhân vi phạm đang công tác” tại điểm a khoản 2 Điều 14;

Bỏ cụm từ “hoặc số CMND” tại điểm a, điểm c khoản 2 Điều 14, điểm a, điểm c khoản 3, khoản 4, khoản 6 Điều 15, điểm a khoản 2 Điều 16.

Việc thay thế, bỏ cụm từ này để bảo đảm phù hợp với hệ thống pháp luật và chủ trương tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp và phù hợp với Luật Căn cước: CMND còn hạn sử dụng thì có giá trị sử dụng đến hết ngày 31-12-2024.

Mời bạn đọc góp ý dự thảo tại đây!

HUỲNH THƠ

Nguồn PLO: https://plo.vn/de-xuat-quy-dinh-ve-niem-phong-tang-vat-vi-pham-hanh-chinh-post879178.html