Đề xuất mới về cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam

Để thể chế trở thành sức mạnh cạnh tranh của Việt Nam trong kỷ nguyên mới thì nhận diện và hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật là việc cần làm ngay.

Ngày 1-11, Ban Nội chính Trung ương, Bộ Tư pháp, Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội tổ chức hội thảo quốc gia về hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

 Ông Phan Đình Trạc, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Nội chính Trung ương, đánh giá cao kết quả nghiên cứu của Bộ Tư pháp về đề án hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

Ông Phan Đình Trạc, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Nội chính Trung ương, đánh giá cao kết quả nghiên cứu của Bộ Tư pháp về đề án hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

Cấu trúc hệ thống pháp luật theo nghĩa rộng và hẹp

Tại hội thảo, TS Dương Thanh Mai, thành viên nhóm nghiên cứu đề án hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật của Bộ Tư pháp, cho biết nhóm nghiên cứu xác định cấu trúc hệ thống pháp luật hiểu theo nghĩa rộng, hiện đại, toàn diện nhất gồm bốn trụ cột: (1) Hệ thống văn bản pháp luật và các nguồn luật bổ sung; (2) Các thiết chế Nhà nước và xã hội trong xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật; (3) Nhân lực pháp luật và đào tạo nguồn nhân lực; (4) Các điều kiện bảo đảm vận hành.

Cấu trúc mang tính chất như một hệ sinh thái toàn diện như vậy đã được thể hiện trong các nghị quyết có tính chiến lược của Đảng ta về hoàn thiện hệ thống pháp luật, gồm Nghị quyết 48 của Bộ Chính trị năm 2005 về chiến lược xây dựng pháp luật và Nghị quyết 27 của BCH Trung ương năm 2022 về hoàn thiện nhà nước pháp quyền.

Tuy nhiên, vì ưu tiên trước mắt là giải quyết, tháo gỡ điểm nghẽn pháp luật nên trước mắt, nhóm nghiên cứu tập trung giải mã cấu trúc hệ thống pháp luật theo nghĩa hẹp, tức theo nguồn luật, chứ chưa bao gồm các thiết chế vận hành, bảo đảm vận hành. Mục tiêu là góp phần cho việc xây dựng định hướng lập pháp, lập quy nhiệm kỳ 2026-2030; rà soát, sắp xếp lại trật tự hệ thống pháp luật hiện hành đến thời điểm 1-3-2027 (mốc yêu cầu theo Nghị quyết 66 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật).

Trong khi đó, để giải quyết bài toán chiến lược hơn, toàn diện hơn của cấu trúc hệ thống pháp luật theo nghĩa rộng, sẽ phải tính tới sửa đổi Hiến pháp 2013, một nhiệm vụ mà dự thảo văn kiện Đại hội XIV công bố lấy ý kiến Nhân dân đang đặt ra.

Với hướng tiếp cận như vậy, nhóm nghiên cứu đánh giá hệ thống pháp luật nước ta qua 40 năm đổi mới đã tương đối đồng bộ, công khai, minh bạch, dễ tiếp cận, cơ bản điều chỉnh tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Vì vậy, việc hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật này cần đảm bảo tính kế thừa, nhưng phải xác định rõ các nguyên tắc thiết kế, vận hành.

Dù vậy, cần nhận diện rõ những mặt hạn chế, điểm nghẽn của hệ thống pháp luật hiện hành gồm nhóm điểm nghẽn về cấu trúc tổng thể; nhóm điểm nghẽn về nội dung; hình thức lập pháp – lập quy; các điểm nghẽn về cấu trúc vận hành.

Thượng tôn Hiến pháp và các nguyên tắc bảo đảm

Để tháo gỡ các điểm nghẽn này, nhóm nghiên cứu đề xuất cấu trúc mới của hệ thống pháp luật. Mô tả dưới dạng hình tháp thì hệ thống ấy gồm bốn tầng:

Tầng 1, ở trên cùng là Hiến pháp;

Tầng 2 kế tiếp là luật, gồm ba lớp: Luật trụ cột/luật gốc xác lập các thể chế và nguyên tắc chung; luật ngành/luật chung quy định các nguyên tắc điều chỉnh từng lĩnh vực quản lý nhà nước, lĩnh vực của đời sống xã hội; và luật chuyên ngành/luật đặc thù điều chỉnh lĩnh vực cụ thể hoặc chính sách liên ngành, về cơ chế thử nghiệm sandbox;

Tầng 3 là văn bản pháp quy, gồm hai lớp: Văn bản của trung ương và văn bản của địa phương;

Tầng 4 là nguồn luật mềm, gồm: Án lệ, tập quán/tập quán thương mại, quy tắc nghề nghiệp… được Nhà nước thừa nhận.

Các tầng như vậy có quan hệ liên thông theo chiều dọc và liên thông ngang, đảm bảo tính thống nhất và khả năng thích ứng của cả hệ thống.

Hệ thống pháp luật như vậy được thiết kế dựa trên các nguyên tắc lớn, gồm:

- Nguyên tắc phân tầng: Đảm bảo thứ bậc pháp lý rõ ràng, tôn trọng tính tối thượng của Hiến pháp và sự thống nhất của các thành tố cấu thành nên hệ thống.

- Nguyên tắc phân ngành, lĩnh vực: Đảm bảo tính hệ thống, liên kết và thống nhất giữa các ngành luật, tránh chồng chéo, phân mảnh.

- Nguyên tắc phân cấp, phân quyền: Phân định rõ ràng thẩm quyền giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp; giữa chính quyền trung ương – chính quyền địa phương.

- Nguyên tắc minh bạch nguồn và tương tác đa nguồn: Thừa nhận sự tồn tại của nhiều nguồn pháp luật, kèm theo các yêu cầu về tính công khai, hiệu lực của từng nguồn và tính tương thích giữa các nguồn.

- Nguyên tắc áp dụng pháp luật và giải quyết xung đột pháp luật: Hình thành cơ chế để hóa giải các mâu thuẫn, chồng chéo vốn có thể xuất hiện trong trong quá trình tổ chức thi hành và áp dụng pháp luật, qua đó tăng tính thống nhất, ổn định của hệ thống.

- Nguyên tắc mở, linh hoạt, thích ứng: Giúp pháp luật vừa ổn định vừa năng động, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và đổi mới sáng tạo.

- Nguyên tắc công khai, dữ liệu mở, dễ tiếp cận và giám sát: Đảm bảo tính dễ tìm, dễ hiểu, dễ áp dụng, dễ pháp điển hóa.

 Trưởng ban Nội chính Trung ương Phan Đình Trạc, Phó Thủ tướng Lê Thành Long, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định, Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Hải Ninh, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng cùng các đại biểu chụp ảnh kỷ niệm hội thảo.

Trưởng ban Nội chính Trung ương Phan Đình Trạc, Phó Thủ tướng Lê Thành Long, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định, Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Hải Ninh, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng cùng các đại biểu chụp ảnh kỷ niệm hội thảo.

Bước đầu tiên để thể chế không còn là điểm nghẽn

Với cấu trúc hệ thống pháp luật như vậy, số lượng văn bản nhiều hay ít không quá quan trọng, nhưng yêu cầu về chuẩn mực văn bản, ngôn ngữ pháp lý phải cao. Hình thức và nội dung từng văn bản phải dữ liệu hóa được, máy có thể đọc được, có vậy mới đưa công nghệ mới, AI vào hỗ trợ cho quá trình rà soát, đánh giá, xây dựng, áp dụng và thi hành pháp luật. Đây là yêu cầu hoàn toàn khác so với cách làm lâu nay, mới chỉ số hóa, quét văn bản giấy thành bản điện tử.

Dù vậy, cấu trúc mới cho phép giảm hai cấp thẩm quyền ban hành và giảm sáu loại hình văn bản pháp luật.

Theo nhóm nghiên cứu, dù chỉ đổi mới cấu trúc hệ thống pháp luật theo nghĩa hẹp, nhưng vẫn phải hoàn thiện các nhóm quy phạm, chế định đánh giá hậu ban hành; về cơ chế giám sát, phản hồi, tự điều chỉnh, hoàn thiện liên tục suốt vòng đời pháp luật.

Cấu trúc hệ thống pháp luật được mô tả trên đây có tính học thuật, thuộc về khoa học pháp lý. Nhưng nhận diện thấu đáo và thiết kế hợp lý thì cấu trúc như vậy sẽ góp phần biến thể chế - hiện đang là "điểm nghẽn của điểm nghẽn", thành sức mạnh cạnh tranh của Việt Nam trong kỷ nguyên mới, để có thể vươn mình trong một thế giới đang đầy biến động khó lường.

Pháp luật, hệ thống pháp luật là thứ mà mỗi người đều có thể cảm nhận thậm chí va chạm trong cuộc sống hàng ngày. Nhiều năm nay, đã xuất hiện ngày càng nhiều những ví von của người dân rằng hệ thống pháp luật nước ta như “rừng luật”, thiếu tính ổn định. Giới khoa học thì cho rằng pháp luật vẫn còn thực trạng chồng chéo, thiếu không gian cho đổi mới sáng tạo.

Trên diễn đàn Quốc hội, tại một số phát biểu của các vị lãnh đạo, thậm chí được đưa vào nghị quyết, kết luận của Đảng rằng thể chế, pháp luật là "điểm nghẽn của điểm nghẽn'; rằng các cơ quan còn chậm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng.

Đến Hội nghị Trung ương 12 hồi tháng 7, trong phát biểu bế mạc, Tổng Bí thư Tô Lâm đặt vấn đề cần hoàn thiện cấu trúc hệ thống pháp luật Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Và yêu cầu này, dù mang tính học thuật, trừu tượng, song vì tầm quan trọng của nó đã lập tức được đưa vào chương trình của Ban Chỉ đạo Trung ương về hoàn thiện thể chế pháp luật.

Sau gần 4 tháng, đến nay, Bộ Tư pháp đã có kết quả nghiên cứu tương đối cơ bản cho nhiệm vụ này.

Nghĩa Nhân

Nguồn PLO: https://plo.vn/de-xuat-moi-ve-cau-truc-he-thong-phap-luat-viet-nam-post878961.html