Đề xuất mỗi cặp vợ chồng, cá nhân được quyết định số con

Theo đề xuất của Bộ Y tế, mỗi cặp vợ chồng, cá nhân sẽ được quyết định về thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh...

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Bộ Y tế đang dự thảo Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số. Trong đó, Bộ đề xuất mỗi cặp vợ chồng, cá nhân quyết định về thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh.

NHIỀU CHÍNH SÁCH VỀ DÂN SỐ KHÔNG CÒN PHÙ HỢP

Bộ Y tế cho biết dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, sự vào cuộc, tích cực tham gia, phối hợp, nỗ lực triển khai công tác dân số của các cấp, các ngành và cả hệ thống chính trị, sự đồng thuận của các tầng lớp Nhân dân, các tổ chức quốc tế, công tác dân số nước ta trong những năm qua đã đạt được những kết quả quan trọng. Chính sách, pháp luật về dân số từng bước được hoàn thiện.

Từ năm 2006 đến năm 2021, nước ta đã đạt và duy trì mức sinh thay thế; duy trì mức độ gia tăng dân số phù hợp. Quy mô dân số năm 2023 đạt hơn 104 triệu người, vượt mục tiêu đến 2030 đạt quy mô dân số là 104 triệu người.

Việt Nam đang ở thời kỳ dân số vàng, tạo ra những lợi thế to lớn cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Phân bố dân số đã hợp lý hơn; chất lượng dân số, chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta không ngừng tăng lên.

Tuổi thọ bình quân người Việt Nam ngày càng được nâng cao. Theo đó, tuổi thọ trung bình của người Việt Nam liên tục tăng, từ 72,8 tuổi (năm2009) lên 73,6 tuổi (năm 2019) và 74,6 tuổi (năm 2024), cao hơn các nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người.

Kết quả nêu trên là tiền đề quan trọng để chuyển chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển.

Qua rà soát các văn bản pháp luật, Bộ Y tế nhận thấy, nhiều quy định có liên quan đến công tác dân số chưa đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với hệ thống pháp luật hiện hành và không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.

Cụ thể, thứ nhất, một số nội dung tại Pháp lệnh Dân số không còn phù hợp với Hiến pháp, như: quy định hạn chế về quyền quyết định số con.

Thứ hai, một số nội dung tại Pháp lệnh Dân số không còn phù hợp với các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành hoặc đã được các Luật quy định, như: quy định về việc hạn chế tập trung đông dân cư vào một số đô thị lớn.

Thứ ba, một số quy định của pháp luật về dân số không còn phù hợp với tình hình thực tiễn và chưa đáp ứng được yêu cầu về công tác dân số trong tình hình mới, như: mức sinh liên tục giảm trong thời gian qua nhưng quy định pháp luật hiện hành lại hạn chế số con (chỉ cho phép mỗi cặp vợ chồng sinh một hoặc hai con).

MỖI VỢ CHỒNG ĐƯỢC QUYẾT ĐỊNH SỐ CON

Theo Bộ Y tế, thực trạng dân số Việt Nam đã phát sinh những vấn đề nghiêm trọng phải kịp thời giải quyết. Đơn cử, mức sinh trên toàn quốc đang có xu hướng giảm thấp dưới mức sinh thay thế, từ 2,11 con/phụ nữ (2021) xuống 2,01 con/phụ nữ (2022), 1,96 con/phụ nữ (2023) và 1,91 con/phụ nữ (2024) - thấp nhất trong lịch sử và được dự báo là sẽ tiếp tục xuống thấp trong các năm tiếp theo.

Quan tâm đến công tác dân số. Ảnh minh họa: Tuấn Dũng.

Quan tâm đến công tác dân số. Ảnh minh họa: Tuấn Dũng.

Theo dự báo, kịch bản mức sinh tiếp tục giảm, đến năm 2039 Việt Nam sẽ kết thúc thời kỳ dân số vàng, năm 2042 quy mô dân số trong độ tuổi lao động đạt đỉnh và sau năm 2054 dân số sẽ bắt đầu tăng trưởng âm. Lúc đó, hệ lụy của mức sinh thấp kéo dài sẽ dẫn đến thiếu hụt lực lượng lao động, suy giảm quy mô dân số, đẩy nhanh già hóa dân số, tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội.

Trong hai thập kỷ qua, mức sinh khu vực thành thị đã xuống dưới mức sinh thay thế, dao động quanh 1,7-1,8 con/phụ nữ; mức sinh khu vực nông thôn luôn cao hơn mức sinh thay thế, ở mức 2,2-2,3 con/phụ nữ. Tuy nhiên, năm 2023, mức sinh khu vực nông thôn giảm xuống còn 2,07 con, dưới mức sinh thay thế, mức thấp nhất từ trước đến nay.

Bộ Y tế cho rằng nguyên nhân do một số nơi chưa nhận thức đầy đủ tính khó khăn, phức tạp, lâu dài của công tác dân số, đặc biệt là việc chuyển trọng tâm chính sách từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển.

Nhiều nơi vẫn chịu nhiều ảnh hưởng nặng nề bởi các định kiến giới. Nội hàm của công tác dân số rộng liên quan đến quy mô, cơ cấu, phân bố và chất lượng dân số cũng đã được nhiều luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam quy định.

Pháp lệnh Dân số được ban hành từ năm 2003 nhiều vấn đề mới chưa được quy định còn khoảng trống, thực hiện chưa nghiêm, thể chế hóa chưa đầy đủ.

Nhằm góp phần duy trì vững chắc mức sinh thay thế trên phạm vi cả nước, Bộ Y tế dự thảo Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số. Trong đó, Bộ Y tế đề xuất về quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân trong việc thực hiện cuộc vận động dân số và kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản.

Cụ thể, họ sẽ được quyết định về thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh. Đồng thời, bảo vệ sức khỏe, thực hiện các biện pháp phòng ngừa bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản, bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/AIDS và thực hiện các nghĩa vụ khác liên quan đến sức khỏe sinh sản.

Đối mặt với các vấn đề về mức sinh, đặc biệt là mức sinh thấp đang và cấp thiết, phải giải quyết như Việt Nam, các quốc gia trên thế giới đã ban hành các chính sách, pháp luật để giải quyết.

Cụ thể, về mức sinh, có 55 Chính phủ có chính sách tăng mức sinh, 19 Chính phủ tập trung vào việc duy trì mức sinh hiện tại. Các nhóm biện pháp chính như: Tại nơi làm việc là cải thiện chế độ nghỉ thai sản, chế độ bố nghỉ chăm con, chế độ nghỉ phép không lương được bảo đảm công việc, thời giờ làm việc ngắn hơn hoặc bán thời gian.

Ưu đãi tài chính, tiền thưởng cho việc sinh con, ưu đãi thuế, trợ cấp tiền mặt hằng tháng cho trẻ em; hỗ trợ thuê nhà, mua nhà ở. Chăm sóc trẻ em như tăng tính sẵn có của dịch vụ chăm sóc trẻ em, hỗ trợ chi phí chăm sóc…

Phúc Minh

Nguồn VnEconomy: https://vneconomy.vn/de-xuat-moi-cap-vo-chong-ca-nhan-duoc-quyet-dinh-so-con.htm
Zalo