Để trụ đỡ nông nghiệp đột phá cần nền tảng chế biến 'xanh'

Nông nghiệp - một trong những trụ đỡ chính của nền kinh tế đang dịch chuyển sang hướng sản xuất xanh. Để tạo ra lợi thế khác biệt lớn Việt Nam cần thêm nền tảng phát triển công nghiệp chế biến để củng cố vị thế của trụ đỡ này.

Nông nghiệp chịu sự biến động của các yếu tố trong và ngoài nước nhưng luôn khẳng định được vị thế là “trụ đỡ” của nền kinh tế. Trong đó, năm ngoái nông nghiệp mang về 62,5 tỉ đô la Mỹ kim ngạch xuất khẩu, đạt mức xuất siêu kỷ lục 18,6 tỉ đô la Mỹ, cao hơn rất nhiều so với con số 6,5-12,2 tỉ đô la Mỹ của giai đoạn 2015-2023. Kết quả này một lần nữa khẳng định nông nghiệp là trụ đỡ của nền kinh tế khi chiếm khoảng 75% tổng xuất siêu cả nước.

Nông nghiệp đang dịch chuyển theo hướng xanh. Trong đó, lúa gạo là lĩnh vực tiên phong thông qua đề án 1 triệu héc ta lúa chất lượng cao.Trong ảnh là mô hình lúa phát thải thấp ở ĐBSCL. Ảnh: Văn Lượng

Nông nghiệp đang dịch chuyển theo hướng xanh. Trong đó, lúa gạo là lĩnh vực tiên phong thông qua đề án 1 triệu héc ta lúa chất lượng cao.Trong ảnh là mô hình lúa phát thải thấp ở ĐBSCL. Ảnh: Văn Lượng

Nếu nhìn riêng vào Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp của cả nước với ba mặt hàng chính là lúa gạo, thủy sản và cây ăn trái thì năm ngoái, mức xuất siêu là 14,3 tỉ đô la Mỹ, chiếm hơn một nửa xuất siêu cả nước.

Từ “chuyển xanh” lúa gạo

Ba mặt hàng chủ lực nêu trên có đóng góp quan trọng vào kết quả của ngành nông nghiệp Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng. Trong đó, qua đề án 1 triệu héc ta lúa chất lượng cao, phát thải thấp, ngành hàng này đang chuyển hướng mạnh mẽ sang sản xuất xanh. Quá trình chuyển hướng của ngành lúa gạo bước đầu đạt được những kết quả ấn tượng, cả về hiệu quả sản xuất lẫn tín hiệu thị trường cho phân khúc “gạo phát thải thấp”.

Trao đổi với phóng viên, ông Phạm Thái Bình, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Nông nghiệp Công nghệ cao Trung An, đơn vị tích cực tham gia liên kết phát triển sản xuất gạo phát thải thấp ở ĐBSCL, cho biết dự kiến tháng 10 tới, công ty sẽ xuất khẩu lô gạo 3.000 tấn giống ST25 đạt chứng nhận “gạo Việt xanh phát thải thấp” cho thị trường Úc.

Lô gạo đạt chứng nhận “gạo Việt xanh phát thải thấp” xuất khẩu đi Nhật Bản.Ảnh: Văn Lượng

Lô gạo đạt chứng nhận “gạo Việt xanh phát thải thấp” xuất khẩu đi Nhật Bản.Ảnh: Văn Lượng

Vào giữa tháng 6-2025, Trung An cũng là đơn vị đầu tiên của Việt Nam phối hợp với Tập đoàn Murase (Nhật Bản) đưa thành công 500 tấn gạo được chứng nhận phát thải thấp cho thị trường Nhật Bản với giá CIF (giá tại cửa khẩu của Nhật Bản) đạt hơn 1.000 đô la Mỹ/tấn.

Gạo phát thải thấp được chứng nhận và xuất khẩu thành công là cả một quá trình mà công ty Trung An cùng các đơn vị liên quan của ngành nông nghiệp và các tổ chức quốc tế đã phối hợp nghiên cứu, triển khai để áp dụng quy trình canh tác giảm phát thải trên đồng ruộng.

Ngoài Trung An, nhiều doanh nghiệp khác như Công ty TNHH xuất nhập khẩu Chơn Chính, Công ty TNHH lúa gạo Việt Nam (Vinarice), Công ty TNHH lương thực Xuân Phương, Công ty cổ phần Tập đoàn Thái Bình (ThaiBinh Seed), Công ty cổ phần lương thực A An cũng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng nhãn hiệu “gạo Việt xanh phát thải thấp”.

Trao đổi với phóng viên, ông Lê Thanh Tùng, Tổng thư ký Hiệp hội ngành hàng lúa gạo Việt Nam (Vietrisa), cho rằng việc chủ động xoay chuyển sản xuất lúa gạo giảm phát thải là bước đi để định vị lợi thế cạnh tranh cho ngành hàng chủ lực này của Việt Nam.

“Ngoài yếu tố an toàn thực phẩm, chất lượng gạo và giá cả thì trách nhiệm với môi trường là yếu tố cần thực hiện vì xu hướng thế giới hiện đang chú trọng giảm phát thải khí nhà kính, tránh các biến động khí hậu từ hoạt động chung và các hoạt động sản xuất nông nghiệp”, ông nói.

Việc áp dụng quy trình canh tác giảm phát thải đã giúp mang lại kết quả ấn tượng ở khía cạnh sản xuất. Trong đó, chi phí giảm từ 8,2%- 24,2% nhờ giảm 30-50% lượng giống, tiết kiệm 30-70 kg phân bón/héc ta, giảm 1-4 lần phun thuốc bảo vệ thực vật và cắt giảm 30-40% lượng nước tưới so với canh tác truyền thống.

Kết quả được tính toán cho thấy, năng suất lúa trong mô hình tăng 2,4-7%, giúp tăng thu nhập của nông dân thêm 12-50%, tương đương lợi nhuận tăng từ 4-7,6 triệu đồng/héc ta. Đặc biệt, canh tác theo cách này góp phần giảm phát thải khí nhà kính, với mức giảm trung bình khoảng 2-12 tấn CO₂ tương đương/héc ta.

Ngoài ngành lúa gạo, thủy sản và cây ăn trái cũng đang có những kế hoạch “chuyển xanh”. Trong đó, ngành thủy sản bước đầu manh nha những cuộc thảo luận bàn giải pháp sản xuất xanh, giảm phát thải cho ngành hàng chủ lực này của Việt Nam.

Cơ hội để công nghiệp chế biến “xanh” tăng tốc

Nhiều ý kiến đánh giá, ngành công nghiệp chế biến “xanh” sẽ có cơ hội phát triển mạnh mẽ hơn trong thời gian tới khi kế hoạch chuyển đổi “xanh” ngành lúa gạo vào năm 2030 đạt 1 triệu héc ta như dự kiến. Cùng với đó, các ngành chủ lực khác như thủy sản và cây ăn trái cũng thực hiện thay đổi phương thức canh tác, nuôi trồng bền vững hơn.

Khi sản phẩm giá trị gia tăng được tạo ra từ nguồn nguyên liệu có chứng nhận bền vững như “gạo Việt xanh phát thải thấp” thì sản phẩm sau hạt gạo không những có sự khác biệt so với ban đầu mà còn mới mẻ và có lợi thế cạnh tranh hơn so với các sản phẩm trong cùng phân khúc. Qua đó, cơ hội để chinh phục khách hàng sẽ rộng hơn, nhất là khi xu hướng tiêu dùng xanh ngày càng được ưa chuộng.

Đón đầu cơ hội nêu trên, ông Bình của Trung An tiết lộ, đang cùng Tập đoàn Murase Nhật Bản triển khai kế hoạch xây dựng nhà máy chế biến để tạo ra những dòng sản phẩm giá trị gia tăng từ nguồn nguyên liệu “gạo Việt xanh phát thải thấp” để bán ra thị trường.

Rõ ràng, định vị phát triển công nghiệp chế biến dựa trên nền tảng sản phẩm bền vững, thân thiện môi trường là hướng đi chuẩn mực. Bởi lẽ, tương lai của ngành nông nghiệp, tức trụ đỡ của nền kinh tế phải là công nghiệp chế biến xanh, thân thiện môi trường từ chính nguồn nguyên liệu bản địa.

TS. Vũ Thành Tự Anh, Giảng viên cao cấp, nguyên Giám đốc Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright (FSPPM), cho biết tiêu chuẩn của thế giới có những bước lùi tạm thời nhưng về dài hạn phát triển xanh và bền vững là quy luật và đòi hỏi tất yếu.

Trong bối cảnh đó, để giải quyết bài toán tăng trưởng ngành nông nghiệp Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng, cần giải quyết được vấn đề năng suất, tức phát triển công nghiệp chế biến từ nguồn nguyên liệu nông nghiệp.

Theo ông Tự Anh, nông nghiệp là động lực tăng trưởng của ĐBSCL và chiếm khoảng 31% GDP của vùng nhưng thực tế con số này lớn hơn rất nhiều vì chưa tính đến công nghiệp chế biến sử dụng đầu vào từ nông nghiệp. “Rõ ràng, nông nghiệp gián tiếp tạo ra rất nhiều GDP và công ăn việc làm trong lĩnh vực công nghiệp chế biến và dịch vụ”, ông nói.

Các số liệu thống kê cũng cho thấy, là vùng trọng điểm về nông nghiệp của cả nước nhưng ĐBSCL lại có chỉ số sản xuất công nghiệp ở mức cao. Chỉ tính riêng năm ngoái, chỉ số này đạt 12,2%, cao gấp 1,5 lần so với cả nước.

Từ thực tế trên có thể thấy rằng, để trụ đỡ nông nghiệp vươn mình mạnh mẽ hơn nữa, cơ quan quản lý và các bên liên quan cần tiếp tục đà phát triển công nghiệp chế biến và dịch vụ dựa trên nền tảng xanh. Trong đó, ý chí của lãnh đạo các địa phương thông qua chính sách thu hút đầu tư, tạo môi trường kinh doanh tốt và thu hút được sự hỗ trợ của cộng đồng vào quá trình này là cực kỳ quan trọng để ngành nông nghiệp phát triển đột phá hơn nữa trong thời gian tới.

Văn Lượng

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/de-tru-do-nong-nghiep-dot-pha-can-nen-tang-che-bien-xanh/
Zalo