Để tốc độ triển khai nhà ở xã hội bứt phá hơn nữa
Theo Viện nghiên cứu đánh giá thị trường Bất động sản Việt Nam (VARS IRE), thị trường nhà ở xã hội vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức cần giải quyết để tốc độ triển khai đề án bứt phá hơn nữa.

Cần đồng bộ giải pháp để "bứt tốc" trong triển khai Đề án 1 triệu nhà ở xã hội quốc gia. (Ảnh: PV)
Nhóm chuyên gia của Viện nghiên cứu đánh giá thị trường Bất động sản Việt Nam khuyến nghị, cần tập trung vào 4 nhóm giải pháp trọng tâm, cụ thể:
Thứ nhất, là quỹ đất để phát triển nhà ở xã hội.
Theo các chuyên gia, hiện nay, việc bố trí quỹ đất tại nhiều địa phương vẫn còn bất cập, chưa phù hợp với tốc độ đô thị hóa và nhu cầu sử dụng đất ở. Không ít trường hợp, quỹ đất được sắp xếp tại những vị trí thiếu kết nối hạ tầng, bệnh viện, trường học... dẫn tới khó khai thác, không đáp ứng được mục tiêu an sinh. Do đó, cơ quan quản lý Nhà nước cần nghiêm túc xem xét đánh giá và áp dụng chế tài kỷ luật với lãnh đạo một số địa phương chưa thực hiện đúng trách nhiệm trong việc phát triển nhà ở xã hội thời gian qua.
Đồng thời, cần tiến hành rà soát toàn bộ các dự án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại, khu đô thị có quy mô từ 2ha trở lên tại các đô thị loại đặc biệt và loại I nhằm làm rõ: Trường hợp chủ đầu tư nộp tiền thay thế nghĩa vụ bố trí quỹ đất 20% để xây dựng nhà ở xã hội thì đã nộp hay chưa. Trường hợp hoán đổi quỹ đất ở vị trí khác để xây dựng nhà ở xã hội thì việc triển khai thực tế ra sao?
Thứ hai, về đánh giá nhu cầu nhà ở xã hội.
Thực tế hiện nay, vẫn tồn tại tình trạng “vừa thiếu, vừa ế” do việc khảo sát đánh giá nhu cầu để lên kế hoạch triển khai dự án chưa sát với thực tế. Vì thế, nguồn cung luôn thiếu và yếu so với nhu cầu nhưng nhiều dự án nhà ở hội xã hội mở bán lại “ế” do vướng quy định về thủ tục, vị trí hoặc không phù hợp với người dân đủ điều kiện.
Để khắc phục, cần nghiên cứu hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm bảo đảm việc bố trí quỹ đất và phát triển nhà ở xã hội, gắn với nhu cầu thực tế, có thể xem xét áp dụng các hình thức khảo sát chuyên nghiệp thông qua phương án thuê hoặc giao cho các đơn vị nghiên cứu thị trường độc lập thực hiện. Từ đó, có căn cứ khoa học và khách quan cho việc hoạch định kế hoạch phát triển.
Thứ ba, về khả năng tiếp cận của người dân đối với nhà ở xã hội.
Chi phí marketing và bán hàng cho các dự án nhà ở xã hội hiện đang khống chế ở mức 2%, mức quá thấp, không đủ để doanh nghiệp triển khai các hoạt động truyền thông tới đúng đối tượng. Điều này đòi hỏi cần có sự điều chỉnh linh hoạt trong quy định, vừa bảo đảm minh bạch, công bằng trong xét duyệt, vừa tạo điều kiện để chủ đầu tư có đủ nguồn lực để truyền thông rộng rãi tới người dân, bảo đảm nhóm đối tượng thụ hưởng chính sách được tiếp cận thông tin về nhà ở xã hội một cách đầy đủ, kịp thời.
Thứ tư, về có khó khăn trong việc kiểm soát đầu cơ và chuyển nhượng nhà ở xã hội.
Thực tế vẫn tồn tại tình trạng một số trường hợp mua nhà ở xã hội nhưng không sử dụng để ở, mà chuyển nhượng trái quy định, gây méo mó thị trường, làm tăng nguy cơ đầu cơ và khiến những người thực sự có nhu cầu không được tiếp cận nhà ở xã hội. Để khắc phục điều này, song song với việc tăng cường thanh tra, kiểm tra toàn diện các dự án nhà ở xã hội, xử phạt doanh nghiệp có dự án bán sai đối tượng cũng như người dân chuyển nhượng sai quy định.
Các chuyên gia đề xuất, sau thời hạn 5 năm sở hữu theo quy định hiện hành, việc chuyển nhượng nhà ở xã hội cần được ưu tiên cho những người dân thuộc diện đủ điều kiện mua nhà ở xã hội và đã được cơ quan thẩm quyền xác nhận. Trường hợp chuyển nhượng cho đối tượng không thuộc diện được hưởng chính sách về nhà ở xã hội, chủ sở hữu khi chuyển nhượng phải hoàn trả lại các ưu đãi đã được hưởng từ chính sách.