Để khoa học công nghệ và nông nghiệp thật sự trở thành động lực phát triển đất nước

Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV của Đảng thể hiện rõ tầm nhìn chiến lược, với 5 quan điểm phát triển nhất quán, các mục tiêu đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045, phản ánh quyết tâm chính trị cao trong xây dựng đất nước giai đoạn mới, kế thừa thành tựu to lớn sau gần 40 năm đổi mới. Các nội dung trong dự thảo được xây dựng công phu, đầy đủ các lĩnh vực trọng yếu từ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, khoa học công nghệ, giáo dục, chuyển đổi số và hợp tác quốc tế.

Từ góc nhìn của một nhà khoa học, tôi cho rằng, để hiện thực hóa mục tiêu ấy, cần có những bước đột phá thực chất trong hai lĩnh vực then chốt: Khoa học công nghệ và nông nghiệp.

GS. TSKH.Trần Đình Long - Chủ tịch Hội Giống cây trồng Việt Nam, Ủy viên Hội đồng tư vấn Khoa học công nghệ và Chuyển đổi số, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

GS. TSKH.Trần Đình Long - Chủ tịch Hội Giống cây trồng Việt Nam, Ủy viên Hội đồng tư vấn Khoa học công nghệ và Chuyển đổi số, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

Cần đột phá trong thể chế và cơ chế thực thi khoa học công nghệ

Dự thảo Báo cáo Chính trị đã xác lập mô hình tăng trưởng mới, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia làm động lực chính,đồng thời coi phát triển kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất. Văn kiện cũng nhấn mạnh việc hoàn thiện thể chế phát triển gắn với thực hiện đồng bộ bốn chuyển đổi: Chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, chuyển đổi cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực; thu hút, trọng dụng nhân tài, đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất mới.

Đây là định hướng hoàn toàn đúng đắn và có tính khả thi cao, thể hiện rõ quyết tâm thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Dự thảo cũng đặt trọng tâm vào việc khơi thông nguồn lực xã hội, khuyến khích khu vực tư nhân đầu tư mạnh mẽ cho nghiên cứu và phát triển công nghệ - tinh thần của Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân.

Tuy nhiên, khoảng cách từ nghị quyết của Đảng đến thực thi của Chính phủ vẫn còn lớn, thể hiện ở một số điểm sau:

Nghiên cứu khoa học tại trường Đại học Phenikaa

Nghiên cứu khoa học tại trường Đại học Phenikaa

Về cơ chế đặt hàng đề tài, dự án khoa học công nghệ: Hiện nay còn nặng tính hành chính, xuất phát từ cấp trên (các Bộ, ngành hoặc Sở Khoa học và Công nghệ), khiến kết quả nghiên cứu khó đưa nhanh vào thực tiễn. Chúng tôi kiến nghị các đề tài, dự án khoa học công nghệ phải xuất phát từ nhu cầu thị trường. Ví dụ, trong nông nghiệp, nghiên cứu về giống cây trồng hay vật nuôi mới cần do doanh nghiệp về giống cây trồng, vật nuôi hoặc nông dân đề xuất, xuất phát từ nhu cầu thực tế sản xuất.

Về thủ tục đánh giá, nghiệm thu: Cần một cuộc cách mạng thực sự trong khâu này: Thực hiện cơ chế khoán chi đến sản phẩm cuối cùng, thay vì chia nhỏ từng phần như hiện nay. Chỉ khi đơn giản tối đa thủ tục thanh quyết toán, nhà khoa học mới có thời gian nghiên cứu đúng nghĩa.

Về kinh phí thực hiện đề tài: Dù nghị quyết và luật quy định “cung cấp đủ kinh phí cho nghiên cứu”, song thực tế vẫn phụ thuộc vào cơ quan tài chính, trong khi vai trò của hội đồng khoa học chưa được coi trọng đúng mức.

Về định hướng đầu tư: Dự thảo báo cáo trình Đại hội XIV nêu rõ cần ưu tiên các công nghệ chiến lược, công nghệ lõi, song đầu tư cho nghiên cứu cơ bản vẫn hạn chế. Cần phân biệt rõ ràng các nghiên cứu cơ bản phải do Nhà nước đầu tư, còn nghiên cứu ứng dụng cần vận hành theo cơ chế tự chủ.

Về gắn kết khoa học với doanh nghiệp: Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, và trong dự thảo báo cáo chính trị Đại hội XIV nêu rõ: Muốn khoa học công nghệ thực sự trở thành động lực phát triển, phải gắn chặt với khu vực doanh nghiệp, nơi tạo ra giá trị sản xuất, thương mại và lan tỏa đổi mới sáng tạo.

Tái cấu trúc hệ thống nghiên cứu và phát triển nông nghiệp xanh, tuần hoàn

Trong dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV nêu rõ: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng xanh, sinh thái, tuần hoàn, gắn với chuỗi giá trị, có hiệu quả. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số trong nông nghiệp, phát triển các vùng sản xuất hàng hóa lớn, chất lượng và giá trị cao, gắn với chế biến sâu và xây dựng thương hiệu sản phẩm; phát triển các hình thức tổ chức và liên kết sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp và nông thôn; mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản, xây dựng các chuỗi sản xuất, liên kết tiêu thụ sản phẩm là rất rõ ràng, mang tầm chiến lược.

Tuy nhiên, trong thực tế, trên 90% nông sản xuất khẩu của Việt Nam vẫn chủ yếu là xuất thô, phản ánh tình trạng “nông nghiệp cơ bắp” kéo dài. Đã đến lúc cần có chương trình hành động cụ thể, phân công rõ trách nhiệm giữa các bộ, ngành: Về sản xuất và vùng nguyên liệu phải do Bộ nông nghiệp và Môi trường; về công nghiệp chế biến và xúc tiến thương mại phải do Bộ Công thương; về nguồn vốn và chính sách đầu tư phải do Bộ Tài chính... Thể chế đã có, vấn đề còn lại là hành động. Nếu làm tốt khâu chế biến sâu và thương hiệu, kim ngạch xuất khẩu nông sản hoàn toàn có thể đạt ba con số trong tương lai gần.

Cây xoan ta biến đổi gen (Melia azedarach Linn) được tạo ra bằng công nghệ gen, có khả năng rút ngắn thời gian ra hoa từ 7–8 năm xuống còn dưới 1 năm. Công nghệ này giúp đẩy nhanh quá trình chọn tạo giống và nâng cao hiệu quả nghiên cứu đối với các loài cây lâm nghiệp, cây lâu năm ở Việt Nam. Mẫu cây được trưng bày tại gian triển lãm của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam trong Triển lãm thành tựu đất nước “80 năm hành trình Độc lập – Tự do – Hạnh phúc”

Cây xoan ta biến đổi gen (Melia azedarach Linn) được tạo ra bằng công nghệ gen, có khả năng rút ngắn thời gian ra hoa từ 7–8 năm xuống còn dưới 1 năm. Công nghệ này giúp đẩy nhanh quá trình chọn tạo giống và nâng cao hiệu quả nghiên cứu đối với các loài cây lâm nghiệp, cây lâu năm ở Việt Nam. Mẫu cây được trưng bày tại gian triển lãm của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam trong Triển lãm thành tựu đất nước “80 năm hành trình Độc lập – Tự do – Hạnh phúc”

Một vấn đề khác là hệ thống các viện nghiên cứu nông nghiệp hiện nay còn dàn trải và trùng lặp. Riêng lĩnh vực trồng trọt đã có 19 viện và trung tâm với hơn 3.000 cán bộ khoa học, nhưng chưa phân định rõ giữa nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. Ví dụ, nghiên cứu ngân hàng gen cây trồng, di truyền, chỉnh sửa gen trong chọn giống cây trồng và vật nuôi hay nghiên cứu cơ bản về phát sinh đất, sức khỏe đất phải là nghiên cứu cơ bản, cần được Nhà nước đầu tư, trong khi các viện này vẫn phải tự chủ như đơn vị ứng dụng, gây lãng phí và thiếu hiệu quả.

Cần trao cơ chế tự chủ toàn diện và triệt để cho các viện nghiên cứu ứng dụng. Hiện nay là cơ chế tự chủ nửa vời. Các viện nghiên cứu có có hàng trăm hecta đất, phòng thí nghiệm trị giá hàng triệu USD mà không được quyền liên doanh, liên kết với doanh nghiệp để tạo sản phẩm giá trị cao. Nghị quyết số 57-NQ/TW và Nghị quyết số 68-NQ/TW đã rất rõ, song quy định của Chính phủ vẫn chưa cụ thể, còn nhiều vướng mắc trong Luật Đất đai, Luật Tài sản công, khiến mối liên kết “viện - doanh nghiệp” chưa hình thành thực chất.

Dự thảo đặt mục tiêu đến năm 2045, Việt Nam trở thành nơi đáng sống, người dân có thu nhập cao. Thực tế Việt Nam có khoảng 60% dân số sống ở nông thôn, phong trào xây dựng nông thôn mới đã đạt nhiều kết quả nổi bật, nhưng tỷ lệ hộ nghèo vẫn còn đáng kể. Trong dự thảo có nêu mục tiêu, chỉ tiêu phát triển chủ yếu 5 năm 2026 - 2030 về xã hội tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2026-2030) duy trì mức giảm 1-1,5 điểm %/năm. Cần nêu rõ con số hiện nay và mục tiêu cụ thể đến năm nào Việt Nam sẽ không còn hộ nghèo theo chuẩn đa chiều, để việc giám sát và đánh giá được minh bạch, thực chất.

Những nội dung góp ý xuất phát từ thực tiễn, hiện trạng về khoa học công nghệ và phát triển nông nghiệp của Việt Nam trải qua gần 40 năm đổi mới, rất nhiều thành quả đã đạt được, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp - trụ đỡ vững chắc của nền kinh tế, nền tảng của an ninh lương thực quốc gia và an sinh xã hội. Tôi kỳ vọng Đại hội XIV của Đảng sẽ có bước đột phá mới trong phát triển kinh tế nông nghiệp, công nghiệp nông nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp xanh và tuần hoàn, góp phần đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững, phồn vinh và hạnh phúc.

GS. TSKH. Trần Đình Long

Nguồn Hà Nội Mới: https://hanoimoi.vn/de-khoa-hoc-cong-nghe-va-nong-nghiep-that-su-tro-thanh-dong-luc-phat-trien-dat-nuoc-722433.html