Để biên giới không còn 'trắng' dân cư (bài 1)

Với đường biên giới dài hơn 455,5km, tiếp giáp 2 nước Lào và Trung Quốc, tỉnh Điện Biên có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về quốc phòng - an ninh của quốc gia. Xác định tầm quan trọng đó, bằng nhiều giải pháp tỉnh đã nỗ lực giữ vững chủ quyền an ninh khu vực biên giới. Nổi bật là việc hoàn thành 'xóa trắng' dân cư biên giới. Nhờ vậy, đã tạo nên một dải biên giới 'mềm' bền chặt, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia.

Bài 1: Gian nan bám biên dựng bản

Theo chủ trương của tỉnh, nhiều người dân đã xung phong rời bản làng thân thuộc, đến tận vùng biên giới gây dựng cuộc sống mới. Những ngày đầu đặt chân lên biên cương, trước mắt bà con chỉ là núi non trập trùng, rừng sâu heo hút và muôn vàn thiếu thốn. Từ con đường mở lối, từng mái nhà dựng tạm, đến bữa cơm chan mồ hôi trên nương… tất cả đều in dấu những bước đi gập ghềnh nhưng đầy quyết tâm. Chính trong gian khó ấy, những câu chuyện bám biên, dựng bản đã viết nên hành trình kiên cường của đồng bào để giữ đất, giữ rừng và xây đắp cuộc sống mới nơi tuyến đầu Tổ quốc.

Ký ức ngày gian khó

Nằm ở vị trí cao nhất, xa nhất và heo hút nhất huyện Mường Nhé cũ, nay thuộc xã Sín Thầu, bản Tả Ló San như một quả trám nổi giữa đại ngàn. Sau gần 30 năm bị bỏ hoang do chiến tranh biên giới cuối thập niên 1970, đến năm 1999 hưởng ứng chương trình di dân ra biên giới của chính quyền địa phương, 13 hộ dân người Hà Nhì tình nguyện từ các xã: Sín Thầu, Sen Thượng (Điện Biên) và Mù Cả (Lai Châu) lên đây lập bản.

Người dân Tả Ló San và cán bộ, chiến sĩ biên phòng ôn lại những ngày đầu gian khó.

Người dân Tả Ló San và cán bộ, chiến sĩ biên phòng ôn lại những ngày đầu gian khó.

Ngày đó, Tả Ló San chỉ là rừng rậm bạt ngàn, không một lối mòn, không một thửa ruộng, cũng chẳng có ánh đèn nào thắp sáng giữa đêm núi mịt mù. Người dân dựng những mái lán đơn sơ bằng nứa lá để tránh gió mưa, rồi men theo từng khe suối, khai phá từng mảnh đất nhỏ hẹp để gieo ngô, trồng lúa. Họ ăn rau rừng, măng rừng thay cơm, gùi từng can nước suối về sinh hoạt. Đêm đến, cái lạnh thấu xương xuyên qua vách nứa, tiếng gió gào cùng tiếng thú rừng như thử thách lòng người.

Trong câu chuyện nơi bếp lửa bập bùng, Trưởng bản Tả Ló San - Pờ Xuân Mười vẫn nhớ như in những ngày “ăn cơm chan mồ hôi, uống nước thay canh” ấy. “Hồi mới lập bản, tất cả đều bằng tay không. Đất thì dốc, cây thì rậm, bà con phải phát từng gốc, đào từng hố. Có khi cả tháng mới mở được mảnh nương nhỏ để trồng ngô. Không có gạo, cả bản phải ăn củ mài, rau rừng thay cơm” - anh Mười kể.

Thực tế khó khăn khiến nhiều người không đủ sức bám trụ. Một vài hộ sau đó đã quay trở về quê cũ, bỏ lại giấc mơ lập bản biên cương. Song phần đa vẫn giữ trọn quyết tâm, ý chí ở lại, giữ đất đến cùng. Trong đó có ông Khoàng Phu Tư. Đến nay ông Tư đã trở thành người có uy tín ở bản Tả Ló San. Điều mà ông không quên nhắc nhở con cháu mỗi ngày là “có người thì có bản, có bản thì mới giữ được biên cương”.

Kiên gan giữ đất

Ở biên giới xã Mường Nhà, hơn 20 năm trước (2002), 11 hộ đồng bào Mông cũng xung phong rời bản Noong É (thuộc xã Mường Lói cũ) để đến bản C5 lập bản, dựng nhà. Ngày ấy, đường vào bản chỉ là lối mòn xuyên rừng, mùa mưa trơn trượt, mùa khô bụi đỏ lưng trâu. Họ “tay không” dựng nên cộng đồng mới giữa rừng sâu, với những ngôi nhà tranh, vách nứa.

Ngồi trong căn bếp chất đầy ngô lúa, khóe mắt ông Giàng A Di rưng rưng, không biết vì khói bếp hay cảm xúc của những ngày “cơ cực” tìm về. Ông Di hồi tưởng: “Ngày mới lên, chỉ có rừng và đá. Đêm ngủ trong nhà tranh, gió lùa bốn bề, con khóc vì lạnh mà bố mẹ như chúng tôi chẳng biết làm gì hơn ngoài ôm vào lòng”.

Đến nay, ngô thóc đầy bồ, ông Giàng A Di vẫn không quên những ngày đầu về C5 lập bản.

Đến nay, ngô thóc đầy bồ, ông Giàng A Di vẫn không quên những ngày đầu về C5 lập bản.

Rồi ông Di kể, ngày ấy mỗi hộ khi lập bản được hỗ trợ 15 triệu đồng. Với gia đình ông, số tiền ấy dùng mua 4 con trâu giống, coi đó là vốn liếng khởi đầu. “Ngày đầu gian nan lắm, cả nhà đi chặt tre, cắt gianh dựng nhà. Sáng sớm lên nương, chiều muộn về tranh thủ phát thêm đất trồng ngô. Đói thì đào củ mài, hái măng rừng, rau rừng mà ăn. Nhưng chúng tôi vẫn tin, Đảng, Nhà nước sẽ không bỏ dân. Mình giữ đất thì đất sẽ nuôi mình. Chỉ cần chăm chỉ làm ăn, không lo đói” - ông Di nói, mắt ánh lên niềm tự hào.

Còn với Trưởng bản Thào A Di thì thời điểm đó vẫn là đứa trẻ. Song cũng bởi thế mà anh cảm nhận rõ những khó khăn, thiệt thòi so với trẻ em trong bản bây giờ. Đặc biệt, điều khiến anh nhớ nhất là chưa ai trong bản từng nói sẽ bỏ đi, và cũng chưa ai làm vậy.

“Khó khăn thì nhiều lắm, chẳng kể hết, nhưng mỗi bữa cơm là sự san sẻ. Có nhà bắt được cá suối, có nhà đào củ măng rừng, đều mang đi chia. Đói, rét, khổ, nhưng tình người thì ấm. Người Mông chúng tôi nghĩ đơn giản thôi, bản còn thì biên cương còn. Biên cương vững thì bà con mới no ấm được!” - Trưởng bản Di nói.

Bản C5 nằm sát biên giới Việt - Lào.

Bản C5 nằm sát biên giới Việt - Lào.

“Điểm tựa xanh” giữa đại ngàn

Nằm sát biên, trong rừng thẳm, lại không có đường, Tả Ló San như cách biệt với bên ngoài, nên bao khó khăn đều hội tụ. Thế nhưng, hơn 25 năm định cư thì quãng thời gian khổ cực nhất chỉ khoảng 2 - 3 năm đầu. Giữa những ngày đói - no bấp bênh, sự có mặt của cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Sen Thượng như tiếp thêm hơi ấm và niềm tin về cuộc sống mới cho bà con.

Từ những ngày đầu về dựng tổ công tác, ở với bà con, các anh bộ đội biên phòng bắt tay cùng lao động, sản xuất, cùng giữ đất, giữ rừng, giữ mốc biên cương. Tả Ló San chỉ có hơn chục hộ, nhưng kế hoạch hàng năm của đồn lập ra cho bản, có biết bao nhiêu việc cần phải làm. Dự án công trình thủy lợi ở Tả Ló San được đơn vị tham mưu Phòng Dân tộc huyện Mường Nhé ngày đó triển khai, đảm bảo lượng nước tưới cho 7ha lúa nước, nếu chăm chỉ bà con không lo thiếu ăn.

Cán bộ Đồn Biên phòng Sen Thượng hướng dẫn người dân cách trồng sa nhân.

Cán bộ Đồn Biên phòng Sen Thượng hướng dẫn người dân cách trồng sa nhân.

Sau chuyện đảm bảo lương thực, bộ đội biên phòng triển khai các kế hoạch: Dựng nhà văn hóa, dựng lại điểm trường mầm non, điện thắp sáng, sau đó là củng cố, xây dựng đội ngũ trưởng, phó bản, tổ chức phụ nữ, thanh niên, mặt trận tổ quốc, nông dân... tạo hệ thống đoàn kết, tập hợp bà con.

Nhìn ra thửa ruộng ngay trước hiên nhà, Trưởng bản Pờ Xuân Mười bảo: “Hồi mới lập bản, xung quanh chỉ là rừng già hoang vu, những mảnh đất nhỏ hẹp, dốc đứng không thể canh tác. Người dân Tả Ló San mang ơn bộ đội biên phòng nhiều lắm. Nếu không có các anh, làm gì có được những thửa ruộng màu mỡ như bây giờ”.

Những con đường gian khó ở Na Chén đều ghi dấu chân những người lính biên phòng.

Những con đường gian khó ở Na Chén đều ghi dấu chân những người lính biên phòng.

Còn ở bản Na Chén (xã Mường Nhà), gần 30 năm qua, từ con đường dẫn vào bản đến từng công trình, nhà lớp học đều in dấu chân những người lính biên phòng. Trong mỗi ngôi nhà của đồng bào Khơ Mú ở đây, đều dành riêng một vị trí đặc biệt để đón tiếp cán bộ biên phòng.

Trưởng bản Na Chén - Cút Văn Cất chia sẻ: “Nếu không có cán bộ Đồn Biên phòng Cửa khẩu Huổi Puốc thường xuyên lên bản, giúp dân, tuyên truyền, nhắc nhở thì dân cũng khó mà yên ổn được như bây giờ. Lúc đầu vào đây phức tạp lắm. Bộ đội nói không vượt biên, không trồng thuốc phiện, không hút ma túy… dân bản nghe hết, làm theo hết. Nhờ vậy mà bản không có ai vi phạm pháp luật, cuộc sống cũng ổn định hơn”.

Dẫu vẫn còn đó những con đường chưa mở, những bản làng chưa kịp đón ánh sáng điện lưới, cuộc sống nơi tận cùng biên giới chưa hẳn đã hết nhọc nhằn. Nhưng trong gian khó, nhân dân các dân tộc vẫn một lòng gắn bó với núi rừng, kiên định ở lại, dựng xây bản làng. Niềm tin ấy lặng lẽ tỏa sáng như “ngọn lửa” giữ đất, giữ người. Và từ trên mỗi mái nhà khắp dọc dài biên cương, lá cờ đỏ sao vàng vẫn kiêu hãnh tung bay trong gió, không chỉ là biểu tượng của niềm tin, mà còn là lời khẳng định “nơi nào có dân, nơi đó có Tổ quốc”!

Bài 2: Biên giới không còn “trắng” dân cư

Hà Linh - Minh Thảo - Lan Phương

Nguồn Điện Biên Phủ: https://baodienbienphu.vn/tin-bai/chinh-tri/de-bien-gioi-khong-con-trang-dan-cu-bai-1
Zalo