Để biến công trình xanh từ gánh nặng thành lợi thế

Vì sao công trình xanh ngày càng được nhắc đến nhiều nhưng số công trình xây dựng mới vẫn còn quá khiêm tốn? Vì sao hành trình 'xanh hóa' của các doanh nghiệp ngành xây dựng được cho là còn rất hạn chế nhưng doanh nghiệp cần làm tiêu chuẩn xanh, làm càng sớm càng tốt?

Bài viết của kỹ sư Phạm Trung Tín(*) giúp phân tích những điểm nghẽn trong lộ trình xanh hóa và đưa ra gợi ý vượt qua những điểm nghẽn đó.

Theo thống kê của Bộ Xây dựng, chỉ riêng năm 2024, cả nước có hơn 51.000 công trình dân dụng và công nghiệp được khởi công xây mới. Tuy nhiên, số lượng công trình đạt chứng chỉ xanh vẫn chỉ chiếm chưa tới 1% trong tổng số này. Con số chênh lệch lớn cho thấy dù công trình xanh ngày càng được nhắc đến nhiều, hành trình “xanh hóa” của ngành xây dựng Việt Nam vẫn còn rất hạn chế.

Áp lực lớn từ bộ ba chính sách mới, khách thuê VIP và tài chính

Ở góc độ thị trường, ngày càng nhiều tập đoàn đã có chính sách “chỉ thuê các cơ sở, văn phòng có chứng chỉ xanh (LEED, EDGE…)”. Điều này đồng nghĩa nếu chủ đầu tư các công trình không đáp ứng, họ sẽ mất ngay nhóm khách thuê quan trọng, chiếm tỷ trọng doanh thu lớn.

Có thể hình dung chính sách của nhà nước là dòng sông, tạo hướng chảy và mở lối cho phát triển bền vững. Nhưng doanh nghiệp phải là người chèo thuyền, nếu không chủ động con thuyền sẽ chỉ trôi dạt. Khi dòng sông chảy đúng hướng và doanh nghiệp vững tay chèo, cả hai cùng phối hợp sẽ giúp vượt qua những điểm nghẽn về chi phí, thủ tục và năng lực nội tại, để không chỉ đi nhanh hơn trong nước mà còn đủ sức tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.

Về chính sách, các quy chuẩn và nghị định gần đây như QCVN 09:2017/BXD về hiệu quả năng lượng hay Nghị định 95/2024/NĐ-CP về phân hạng nhà chung cư đã bắt đầu lồng ghép các tiêu chí liên quan đến tiết kiệm năng lượng và môi trường. Điều này tạo áp lực ngày càng lớn cho các chủ đầu tư, nếu không đáp ứng, công trình có thể khó được phê duyệt, bị xếp hạng thấp hoặc giảm giá trị thương mại.

Bên cạnh đó, theo Nghị định 06/2022/NĐ-CP, từ năm 2026, các cơ sở phát thải lớn sẽ phải tuân theo cơ chế hạn ngạch và tham gia thị trường carbon. Nghĩa là nếu vượt quá lượng phát thải cho phép, doanh nghiệp buộc phải mua tín chỉ carbon hoặc trả phí phần chênh lệch - một gánh nặng tài chính tiềm ẩn đối với những công trình chưa chú trọng đến tiết kiệm năng lượng.

Ở khía cạnh tài chính, doanh nghiệp đang chịu áp lực lớn từ chi phí vận hành tòa nhà như điện, nước ngày càng cao, làm giảm biên lợi nhuận. Khi đó các tiêu chuẩn xanh đóng vai trò như công cụ giúp chủ đầu tư soi rõ những điểm không hiệu quả và gây lãng phí, từ đó xây dựng chiến lược đầu tư CAPEX hợp lý. Theo thống kê từ cơ sở dữ liệu của IFC, chi phí đầu tư ban đầu cho công trình xanh chỉ tăng thêm từ 1-5% so với công trình thông thường, trong khi thời gian hoàn vốn trung bình chỉ khoảng 3-5 năm, tùy đặc điểm công trình và điều kiện khí hậu.

Chẳng hạn một tòa nhà văn phòng ở TPHCM thường tiêu tốn nhiều vào làm lạnh và chiếu sáng; chủ đầu tư có thể tiếp cận bằng các giải pháp “quick win” như thay đèn LED, lắp cảm biến, sử dụng kính Low-E hoặc film cách nhiệt để giảm thất thoát nhiệt. Đặc biệt, để đo lường chính xác mức tiết kiệm và ROI cho từng hạng mục, các tiêu chuẩn công trình xanh chính là công cụ hỗ trợ đắc lực. Ngoài ra, nhờ có chứng chỉ xanh, nhiều chủ đầu tư còn tiếp cận được nguồn vốn ưu đãi hoặc phát hành trái phiếu xanh, giúp tối ưu cả vận hành lẫn tài chính.

Các điểm nghẽn

Như đã đề cập ở trên, áp lực với các doanh nghiệp làm công trình dân dụng và công nghiệp đang đứng trước áp lực ngày càng lớn từ chính sách mới hướng đến các tiêu chuẩn xanh, quan điểm của khách hàng thuê cũng như từ khoản chi phí vận hành tốn kém trên thực tế, hành trình “xanh hóa” của các doanh nghiệp ngành xây dựng đã rõ là phải đi qua, dù còn nhiều điểm nghẽn phải vượt qua.

Về chính sách và thể chế. Thứ nhất, khung pháp lý chưa ràng buộc. Hiện mới có QCVN 09:2017/BXD về hiệu quả năng lượng, một số nghị định lồng ghép “công trình xanh”, nhưng chưa có luật hoặc bộ tiêu chuẩn bắt buộc, thống nhất cho toàn ngành xây dựng. Thứ hai, chậm triển khai công cụ định giá carbon, thị trường carbon chưa vận hành rõ ràng. Doanh nghiệp chưa thấy rõ chi phí - lợi ích, nên thiếu động lực chuyển đổi. Thứ ba, thủ tục hành chính vẫn phức tạp, doanh nghiệp trải qua nhiều cấp xét duyệt, hồ sơ phức tạp.

Có thể hình dung chính sách của nhà nước là dòng sông, tạo hướng chảy và mở lối cho phát triển bền vững. Nhưng doanh nghiệp phải là người chèo thuyền, nếu không chủ động con thuyền sẽ chỉ trôi dạt. Khi dòng sông chảy đúng hướng và doanh nghiệp vững tay chèo, cả hai cùng phối hợp sẽ giúp vượt qua những điểm nghẽn về chi phí, thủ tục và năng lực nội tại, để không chỉ đi nhanh hơn trong nước mà còn đủ sức tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.

Doanh nghiệp cũng còn nhiều hạn chế. Ví dụ, vẫn giữ tư duy ngắn hạn, nhiều chủ đầu tư vẫn xem công trình xanh là chi phí thay vì đầu tư. Doanh nghiệp cũng thiếu năng lực kỹ thuật khi phần lớn thiếu đội ngũ thiết kế, người quản lý dự án chưa quen với các công cụ mô phỏng, chưa nắm rõ yêu cầu các tiêu chuẩn xanh. Dữ liệu thiếu sự minh bạch cũng là điều đáng nói. Để đạt chứng chỉ xanh, doanh nghiệp cần có hồ sơ bản vẽ, hệ thống cơ điện, vật liệu… nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn chưa có hệ thống quản lý dữ liệu bài bản.

Thiếu hợp tác chuỗi cung ứng. Các nhà thầu, nhà cung cấp vật liệu chưa chịu hợp tác, thống nhất với nhau trong việc tạo ra chuỗi giá trị xanh đồng bộ, điều mà giới truyền thông thường gọi là thiếu hợp tác chuỗi cung ứng. Ví dụ, chủ đầu tư muốn làm tiêu chuẩn xanh cần vật liệu có chứng nhận có lượng carbon hàm chứa vật liệu thấp (gạch không nung, sàn, tường…) và đã thiết kế đúng tiêu chuẩn nhưng đến khi triển khai mới thấm mùi vị của thị trường vật liệu trong nước chưa sẵn nguồn. Nhà thầu cũng thường ưu tiên sản phẩm phổ biến, dễ mua nhanh hơn là tìm vật liệu “xanh” mới nên phương án xanh bị loại bỏ ngay từ giai đoạn chào thầu.

Có thể hình dung chính sách của nhà nước là dòng sông, tạo hướng chảy và mở lối cho phát triển bền vững. Nhưng doanh nghiệp phải là người chèo thuyền, nếu không chủ động con thuyền sẽ chỉ trôi dạt. Khi dòng sông chảy đúng hướng và doanh nghiệp vững tay chèo, cả hai cùng phối hợp sẽ giúp vượt qua những điểm nghẽn về chi phí, thủ tục và năng lực nội tại, để không chỉ đi nhanh hơn trong nước mà còn đủ sức tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.

Vượt qua những điểm nghẽn

Để biến công trình xanh từ gánh nặng thành lợi thế, doanh nghiệp có thể bắt đầu từ những bước nhỏ, như thay đèn LED, lắp thiết bị tiết kiệm nước, bổ sung cảm biến chiếu sáng. Đây là các giải pháp chi phí thấp nhưng mang lại hiệu quả nhanh chóng nhất. Tiếp theo, việc tận dụng các công cụ số hóa và nền tảng trực tuyến là chìa khóa để vượt qua hạn chế về dữ liệu và năng lực kỹ thuật. Các hệ thống như EDGE cung cấp dữ liệu khí hậu và vật liệu bản địa hóa, dễ sử dụng cho phép mô phỏng tổng thể hiệu quả công trình, thay vì chỉ đánh giá từng hạng mục riêng lẻ. Việc tiếp cận vốn xanh, trái phiếu bền vững và xây dựng đội ngũ nội bộ am hiểu ESG sẽ là yếu tố quyết định để mở rộng quy mô. Quan trọng nhất, doanh nghiệp cần thay đổi tư duy: coi xanh không phải là chi phí phát sinh, mà là khoản đầu tư chiến lược để bảo vệ tài chính, thương hiệu và khả năng cạnh tranh trong dài hạn.

(*) Công ty SGS Việt Nam trách nhiệm hữu hạn.

Tài liệu tham khảo:

https://moc.gov.vn/vn/tin-tuc/1299/86377/cong-bo-thong-tin-thong-ke-linh-vuc-xay-dung-pho-bien-chinh-thuc-nam-2024.aspx

https://www.ifc.org/content/dam/ifc/doc/2023/building-green-sustainable-construction-in-emerging-markets.pdf?utm_source=chatgpt.com

Phạm Trung Tín(*)

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/de-bien-cong-trinh-xanh-tu-ganh-nang-thanh-loi-the/