Dạy tiếng Anh bắt buộc từ lớp 1: Cần giải pháp bài bản và lộ trình phù hợp
Chính phủ vừa phê duyệt Đề án 'Đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn đến năm 2045'. Mục tiêu của đề án là đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học ở Việt Nam; Tiếng Anh được sử dụng rộng rãi, thường xuyên, hiệu quả trong dạy học, giao tiếp trong các nhà trường.
Điểm đáng chú ý trong Đề án là từ năm 2030, tất cả trường phổ thông trên toàn quốc sẽ dạy tiếng Anh bắt buộc từ lớp 1 thay vì lớp 3 như hiện nay. Nhiều ý kiến cho rằng, đây là mục tiêu thể hiện quyết tâm lớn của Nhà nước trong việc nâng cao năng lực cho thế hệ trẻ song cũng cần phải có những giải pháp bài bản, lộ trình phù hợp để triển khai hiệu quả, khả thi.
Chủ trương đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai từ lớp 1 thể hiện tham vọng chính đáng và tầm nhìn dài hạn của Nhà nước trong việc nâng cao năng lực ngoại ngữ cho thế hệ trẻ Việt Nam, phục vụ mục tiêu hội nhập và phát triển bền vững. Nhiều giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục bày tỏ đồng tình với chủ trương này, nhất là khi nhận thấy việc học tiếng Anh từ lớp 1 sẽ tạo cơ hội để nâng cao năng lực, nền tảng cho học sinh bởi các con đang như tờ giấy trắng nên việc tiếp thu sẽ rất nhanh. Mặc dù vậy, điều các nhà quản lý lo lắng là làm sao tuyển đủ giáo viên để thực hiện việc này, nhất là trong bối cảnh thu nhập của nhà giáo hiện nay vẫn còn thấp, chưa đủ sức hấp dẫn đối với các bạn trẻ thực sự giỏi tiếng Anh rồi chất lượng, phương pháp giảng dạy làm sao để việc học tiếng Anh từ lớp 1 không trở thành gánh nặng cho học sinh.
Theo tính toán của Bộ GD&ĐT, Đề án đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học sẽ được áp dụng trong tất cả các cơ sở giáo dục và sẽ tác động đến khoảng 50.000 cơ sở giáo dục với gần 30 triệu trẻ em, học sinh, sinh viên và khoảng 1 triệu cán bộ quản lý, giáo viên ở tất cả các cấp học, ngành học, ngành đào tạo. Thời gian thực hiện của Đề án là 20 năm, kể từ năm 2025 đến năm 2045, được triển khai với 3 giai đoạn chính. Trong đó, riêng đối với bậc Tiểu học, để có cơ sở vững chắc, đảm bảo thành công mục tiêu của Đề án là dạy tiếng Anh bắt buộc từ lớp 1 theo chương trình GDPT 2018 dự kiến sẽ phát sinh thêm biên chế giáo viên tiếng Anh trong các trường tiểu học trên cả nước thêm khoảng gần 10.000 người.

Chia sẻ với PV Báo CAND về vấn đề này, PGS.TS Bùi Mạnh Hùng, chuyên gia phát triển chương trình giáo dục phổ thông cho rằng, chủ trương dạy tiếng Anh bắt buộc từ lớp 1 từ năm 2030 là một bước nâng cao hơn so với quy định trong chương trình GDPT năm 2018. Theo quy định tại chương trình GDPT 2018, học sinh lớp 1 và lớp 2 có thể học tiếng Anh như một môn tự chọn, thời gian học không vượt quá 70 tiết/năm, tức 2 tiết/tuần. Trong những năm qua, học sinh nhiều trường, nhất là các trường tư thục và trường công lập ở những đô thị lớn, nơi có đủ điều kiện đã chọn học tiếng Anh từ lớp 1. Vì vậy, việc đưa môn học này thành môn bắt buộc là tạo cơ hội bình đẳng cho tất cả các học sinh, kể cả vùng khó khăn cũng được tiếp cận tiếng Anh từ sớm, không bị thua thiệt so với các bạn ở thành phố song chủ trương này đặt ra nhiều thách thức.
Theo PGS.TS Bùi Mạnh Hùng, các thách thức có thể kể đến là đội ngũ giáo viên thiếu trầm trọng, chất lượng giáo viên tiếng Anh có đủ đáp ứng yêu cầu và quan trọng hơn, nếu không có phương pháp dạy học phù hợp thì sẽ dễ tạo nên gánh nặng học tập lớn cho học sinh. “Từ lớp 1, các em phải dành nhiều thời gian để làm quen với chữ viết tiếng Việt, phải thực hành nhiều để hình thành và phát triển kĩ năng, nhất là đọc và viết. Đối với học sinh thuộc các nhóm dân tộc thiểu số, ngoài tiếng Việt, các em có thể còn học thêm một ngôn ngữ dân tộc thiểu số. Bây giờ thêm tiếng Anh, các em phải học cùng một lúc 3 ngôn ngữ. Bên cạnh đó, SGK tiếng Anh hiện nay biên soạn theo chuẩn đầu ra của chương trình GDPT 2018, thời gian học ở Tiểu học chỉ là 3 năm. Nếu dạy học bắt buộc từ lớp 1 thì chuẩn đầu ra cho lớp 5, theo đó là lớp 9 và lớp 12, có nâng lên không? Nếu nâng lên thì chương trình và toàn bộ SGK Tiếng Anh có phải biên soạn lại không?
Ngoài ra, cùng với việc thiếu giáo viên thì chất lượng giảng dạy của giáo viên cũng là một vấn đề. Nếu giáo viên không có kĩ năng tiếng Anh tốt và cũng không biết tận dụng sự hỗ trợ của máy móc, công nghệ thì lỗi phát âm của giáo viên có thể truyền sang học sinh khiến các em phát âm sai ngay từ đầu, sau này rất khó sửa. Học sớm khi đó thành ra có hại nhiều hơn có lợi. Và cuối cùng, trong bối cảnh nguồn lực quốc gia của chúng ta có hạn, đầu tư quá lớn cho việc dạy học tiếng Anh chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến việc dạy học các môn quan trọng khác, trong đó có những môn học có thể còn quan trọng hơn nhiều so với tiếng Anh”, PGS.TS Bùi Mạnh Hùng đặt vấn đề.
Từ những phân tích trên, PGS.TS Bùi Mạnh Hùng nhìn nhận, việc dạy học tiếng Anh bắt buộc ngay từ lớp 1 cần được diễn giải trong bối cảnh triển khai Đề án của Việt Nam với những mục tiêu cụ thể và có thể đạt được. Đặc biệt, cần coi đây là chiến lược lâu dài, kết quả của những nghiên cứu khoa học kĩ lưỡng chứ không phải thuần túy là quyết tâm chính trị. Do đó, cần có giải pháp cụ thể, bài bản, lộ trình phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước, vừa triển khai vừa khảo sát, đánh giá để giáo dục đổi mới được đúng hướng và nguồn lực đầu tư được sử dụng thực sự hiệu quả.
TS Nguyễn Thúy Hồng, nguyên Phó Cục trưởng Cục Nhà giáo, Bộ GD&ĐT cũng cho rằng, chủ trương này sẽ góp phần làm thay đổi quan điểm giảng dạy tiếng Anh trong nhà trường, đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ được sử dụng trong môi trường rộng rãi hơn, phổ biến hơn, học sinh có thể bắt đầu học từ lớp 1 và từng bước tiến tới dạy các môn học bằng tiếng Anh ở các nơi có đủ điều kiện. Tuy vậy, TS Nguyễn Thúy Hồng cũng thừa nhận, để thực hiện được mục tiêu, chúng ta đang phải đối mặt với nhiều thách thức, đòi hỏi cần thay đổi chương trình, học liệu, hình thức dạy học; nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, nhất là kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin; thay đổi cách kiểm tra và đánh giá.
Do đó, giải pháp cần được tập trung thực hiện là đầu tư vào đào tạo và bồi dưỡng giáo viên tiếng Anh đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng với chương trình đào tạo chuẩn hóa; cải thiện chính sách lương, phụ cấp và cơ hội nghề nghiệp để thu hút giáo viên, đặc biệt tại các vùng khó khăn và cuối cùng là có lộ trình triển khai cần linh hoạt giữa các vùng miền.
































