Đẩy mạnh số hóa trong quản lý nuôi trồng và khai thác thủy sản

Thực hiện định hướng phát triển nông nghiệp tiên tiến, hiện đại, thời gian qua, Chi cục Thủy sản và Kiểm ngư (Sở Nông nghiệp và Môi trường) đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp thúc đẩy chuyển đổi số trong công tác quản lý nuôi trồng và khai thác thủy sản (KTTS). Từ việc ứng dụng các phần mềm chuyên dụng trong giám sát môi trường, xử lý các hồ sơ trên cổng dịch vụ công trực tuyến, số hóa quy trình từ sản xuất, nuôi trồng đến triển khai truy xuất nguồn gốc điện tử trong KTTS đã góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, giảm chi phí, tăng năng suất và giá trị sản phẩm.

Lực lượng chức năng kiểm tra thiết bị định vị tàu cá tại huyện Hải Hậu.

Lực lượng chức năng kiểm tra thiết bị định vị tàu cá tại huyện Hải Hậu.

Để nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý, Chi cục Thủy sản và Kiểm ngư chú trọng ứng dụng công nghệ số trong quản lý và giám sát hoạt động nuôi trồng và KTTS, nhằm đảm bảo tính minh bạch và nhanh chóng, hiệu quả, chính xác... Thông qua hệ thống cổng dịch vụ công trực tuyến, việc tiếp nhận, xử lý các hồ sơ về thủ tục hành chính trong lĩnh vực thủy sản và trả kết quả được thực hiện đúng quy định đã góp phần tiết kiệm thời gian và chi phí đi lại cho người dân, đồng thời tạo môi trường thuận lợi cho công tác quản lý số liệu, thống kê, báo cáo cũng như công tác tham mưu. Bên cạnh đó, Chi cục còn thiết lập hệ thống thông tin liên lạc, kết nối nội bộ và kết nối người dân thông qua ứng dụng mạng xã hội zalo với các nhóm theo chủ đề (nuôi trồng thủy sản, sản xuất giống thủy sản, KTTS…) nhằm chia sẻ kịp thời thông tin chuyên môn, kỹ thuật, thị trường, thời tiết… trong nuôi trồng thủy sản và KTTS. Các nhóm này không chỉ trở thành cầu nối kết nối hiệu quả giữa cơ quan quản lý với doanh nghiệp, người dân mà còn giúp cải thiện khả năng dự báo sản lượng, nâng cao hiệu quả sản xuất, khai thác, chế biến; giảm rủi ro từ thiên tai, dịch bệnh.

Trong nuôi trồng thủy sản, từ đầu năm đến nay, các hộ nuôi trồng thủy sản đã tập trung tu sửa, cải tạo ao đầm và thả giống mới. Đến nay, các vùng nuôi trồng thủy sản đã thả nuôi được 93% diện tích theo kế hoạch. Nhiều hộ nuôi đã quan tâm đầu tư cơ sở hạ tầng, chú trọng thực hiện đủ các bước trong quy trình nuôi và mạnh dạn thử nghiệm kỹ thuật mới. Hình thức nuôi cũng chuyển dần từ nhỏ lẻ sang nuôi tập trung, nuôi thâm canh, bán thâm canh áp dụng các tiêu chuẩn quốc gia về nuôi thủy sản, tiêu chuẩn thực hành nuôi tốt giúp nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm thủy sản. Đối tượng nuôi ngày càng đa dạng với các loài cá truyền thống là cá trắm, trôi, chép… và các đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao như: diêu hồng, lóc bông, cá lăng, ếch, chạch sụn... Điểm sáng trong quá trình số hóa nuôi trồng thủy sản là Chi cục Thủy sản và Kiểm ngư đã kết nối, hỗ trợ nhiều cơ sở nuôi tôm thẻ chân trắng công nghệ cao hợp tác với các nhà sản xuất lắp đặt thí điểm các thiết bị quan trắc môi trường tự động thay cho việc đo thủ công bằng các thiết bị cầm tay (máy đo, que test). Hệ thống này giúp người nuôi theo dõi các chỉ số môi trường nuôi như nhiệt độ, pH, độ mặn… trong ao một cách chính xác, liên tục, hạn chế rủi ro, nâng cao hiệu quả phòng bệnh. Dữ liệu thu được tự động cập nhật liên tục qua phần mềm quản lý chuyên dụng, giúp chủ ao phát hiện sớm các vấn đề, từ đó đưa ra quyết định kịp thời và chính xác, giảm thiểu thiệt hại do môi trường biến động.

Bên cạnh đó, Chi cục Thủy sản và Kiểm ngư tăng cường công tác đào tạo, hỗ trợ kỹ thuật trực tuyến. Thông qua các lớp tập huấn, các buổi tuyên truyền, người nuôi được tiếp cận các phương pháp quản lý, kỹ thuật nuôi trồng thủy sản theo hướng hiện đại, sử dụng công nghệ mới và cách ứng dụng các công cụ số trong quản lý sản xuất. Hiện nhiều hộ nuôi sử dụng các phần mềm tích hợp quản lý toàn diện quy trình sản xuất từ quản lý con giống, chăm sóc, sử dụng thức ăn, chế phẩm sinh học, thuốc đến thu hoạch và kết nối tiêu thụ. Qua đó, người nuôi kiểm soát được chi phí, lợi nhuận, quản lý thông tin về lịch sử chăm sóc và sức khỏe của thủy sản hướng tới số hóa hồ sơ sản xuất để tự động cập nhật số liệu trên các hệ thống quản lý hành chính theo quy định, nhất là đối với các cơ sở sản xuất giống thủy sản. Đây là tiền đề quan trọng để minh bạch hóa quy trình, phục vụ truy xuất nguồn gốc sản phẩm thủy sản nuôi, đáp ứng yêu cầu thị trường, nhất là các thị trường xuất khẩu.

Với lĩnh vực KTTS, quá trình chuyển đổi số cũng ghi nhận nhiều bước tiến quan trọng. Ngư dân Nam Định ngày càng mạnh dạn áp dụng trang thiết bị hiện đại trong khai thác, đánh bắt hải sản. Một số tàu đánh bắt xa bờ còn sử dụng các thiết bị hỗ trợ khai thác tiên tiến như hệ thống định vị vệ tinh GPS, thiết bị giám sát hành trình, máy dò cá, thiết bị mành chụp 4 tăng gông, đèn led chiếu sáng… Nhiều chủ tàu cũng đang tích cực ứng dụng công nghệ số trong quy trình đánh bắt nhằm nâng cao hiệu quả. Ngoài ra, quá trình thực hiện truy xuất nguồn gốc thủy sản khai thác điện tử (eCDT) trên địa bàn tỉnh đang được triển khai thực hiện. Mặc dù bước đầu còn gặp khó khăn, vướng mắc như nhiều người dân không sử dụng điện thoại thông minh, trình độ và việc tiếp cận với công nghệ mới còn chậm và chưa sẵn sàng, tuy nhiên với việc vào cuộc quyết liệt của các cơ quan chức năng như Chi cục Thủy sản và Kiểm ngư tỉnh, Ban quản lý Cảng cá Nam Định trong tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn và đầu tư trang bị các máy sử dụng hệ điều hành tương thích tại các cảng cá để hỗ trợ người dân và doanh nghiệp, việc triển khai truy xuất nguồn gốc thủy sản khai thác điện tử trên địa bàn tỉnh đang được thực hiện một cách đồng bộ, có hiệu quả… Từ đầu năm 2024 đến nay, đã có gần 8.400 lượt tàu làm các thủ tục khai báo eCDT.

Bên cạnh đó, việc chuyển đổi số trong quản lý chuỗi cung ứng thủy sản cũng đang được ngành chức năng tỉnh triển khai thông qua các kênh thông tin trung gian, hệ thống các ứng dụng mạng xã hội. Tại đây, các cơ sở cung cấp thông tin cần thiết về năng lực sản xuất, sản phẩm, thời gian và khả năng cung ứng để những người có nhu cầu dễ dàng tiếp cận thông tin, nhanh chóng tìm được nguồn sản phẩm theo đúng nhu cầu. Mô hình này không chỉ tiết kiệm chi phí trung gian mà còn tăng hiệu quả tiêu thụ, góp phần ổn định thị trường.

Với định hướng đúng đắn, sự đồng hành của ngành chức năng và tinh thần chủ động, sáng tạo của người dân, ngành thủy sản địa phương đang chuyển mình mạnh mẽ trong việc ứng dụng số hóa, hướng tới mục tiêu “nông nghiệp thông minh”, tạo dựng nền kinh tế biển hiện đại và hiệu quả. Không chỉ tạo nên những thay đổi tích cực về phương thức quản lý, tổ chức sản xuất, kết nối thị trường, nâng cao năng suất, giá trị sản phẩm, chuyển đổi số còn là giải pháp cốt lõi để bảo vệ môi trường sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu, đảm bảo an sinh xã hội để phát triển bền vững ngành thủy sản trong kỷ nguyên số.

Bài và ảnh: Ngọc Ánh

Nguồn Nam Định: https://baonamdinh.vn/kinh-te/202506/day-manh-so-hoa-trong-quan-ly-nuoi-trong-va-khai-thac-thuy-san-a9d18c6/
Zalo