Dấu ấn 'Người phụ nữ thép của bàn đàm phán' Nguyễn Thị Bình
Bà Nguyễn Thị Bình là một trong những biểu tượng tiêu biểu của ngoại giao cách mạng, có những cống hiến đặc biệt xuất sắc, tiêu biểu.
Bộ Nội vụ đang tiến hành lấy ý kiến nhân dân về việc trình xét, tặng danh hiệu “Anh hùng Lao động” đối với nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nguyên Phó Chủ tịch Nước, nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam Nguyễn Thị Bình.

Bà Nguyễn Thị Bình có tên thường gọi là Nguyễn Thị Châu Sa.
Bà sinh ngày 26/5/1927 tại xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (cũ). Hiện bà đang ở số 68B, Trần Hưng Đạo, Thành phố Hà Nội.
Ngày 10/5/1948, bà Nguyễn Thị Bình chính thức vào Đảng và hoạt động cách mạng sôi nổi.
Bà Bình có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ là Cử nhân Văn khoa, tốt nghiệp Đại học Hà Nội (trước 1954 học tại Trường Lyceé Sisowath - Campuchia, sau đó du học tại Pháp).
người phụ nữ thép của bàn đàm phán
Trong giai đoạn 1969–1976, bà Nguyễn Thị Bình trên cương vị Bộ trưởng Bộ Ngoại giao là một trong những biểu tượng tiêu biểu của ngoại giao cách mạng, có những cống hiến đặc biệt xuất sắc, tiêu biểu như:
Là Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Hội nghị Paris (1968 - 1973), đóng vai trò quyết định trong việc đưa đến Hiệp định Paris ngày 27/01/1973, kết thúc sự can thiệp quân sự của Mỹ ở miền Nam Việt Nam.

Bà Nguyễn Thị Bình, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam trong một cuộc phỏng vấn với truyền thông nước ngoài (Ảnh: En.baoquocte).
Cuộc đàm phán bốn bên Paris là một cuộc đấu tranh quyết liệt trên mặt trận ngoại giao, đòi hỏi rất nhiều về bản lĩnh, vừa kiên quyết về nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách lược, về trí tuệ và sáng tạo. Không phải ngẫu nhiên mà bà Nguyễn Thị Bình được Chủ tịch Hồ Chí Minh cử làm Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Trưởng đoàn đàm phán Chính phủ Cách mạng Lâm thời tại Hội nghị Paris.
Cùng với ông Lê Đức Thọ, Cố vấn đặc biệt của Đoàn đàm phán Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris, ông Xuân Thủy, một chính khách chính trị kiêm nhà thơ, nhà báo, có khả năng quy tụ được sự đồng tình của bạn bè và dư luận quốc tế, bà Nguyễn Thị Bình - đại diện cho phụ nữ miền Nam anh hùng, bất khuất, với trí thông minh, thái độ chân thành, mềm mỏng, cởi mở và thân thiện đã gây được sự chú ý, tranh thủ được thiện cảm của dư luận thế giới, đã tạo thành bộ ba thương lượng có đủ khả năng đưa cuộc đàm phán Paris đến thắng lợi.
Trong cuộc đàm phán gay go kéo dài, bà Nguyễn Thị Bình cùng với Bộ trưởng Xuân Thủy nắm vững đường lối và phương châm của Bộ Chính trị, Trung ương Đảng, vận dụng sách lược ngoại giao lớn "Tuy hai mà một, tuy một mà hai", nắm vững thực tế tiền tuyến miền Nam, luôn đứng vững trên thế tiến công áp đảo đối phương về đạo lý và pháp lý, vững vàng, sắc sảo, góp phần thực hiện nhiệm vụ chủ yếu của ngoại giao và đàm phán là phối hợp và hỗ trợ chiến trường, kiềm chế địch, bảo đảm chiến trường càng đánh càng mạnh, càng được thế giới đồng tình.
Trên cương vị Bộ trưởng Ngoại giao và Trưởng đoàn đàm phán Chính phủ Cách mạng lâm thời, đại diện cho nhân dân miền Nam chiến đấu, bà Nguyễn Thị Bình rất tích cực vận động chính giới, giới trí thức, báo chí Pháp và phương Tây ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam.
Bà đã đi thăm nhiều nước ở khắp các châu lục, dự nhiều cuộc mít tinh tập hợp lực lượng, biểu tình, diễu hành ở Việt Nam; qua đó, đưa cuộc chiến đấu anh hùng của nhân dân miền Nam Việt Nam đến với thế giới, kéo thế giới đến với Việt Nam, góp phần tăng cường và mở rộng mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của nhân dân miền Nam.
Trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, chưa bao giờ có cuộc đấu tranh nào lại giành được sự đồng tình ủng hộ to lớn, rộng rãi và kéo dài suốt hai thập kỷ với nhiều hình thức phong phú, của nhiều tầng lớp nhân dân thế giới kể cả nhân dân Mỹ, như cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam. Sự ủng hộ to lớn đó đã trở thành sức mạnh vật chất đánh bại ý chí xâm lược của kẻ thù.
Sự ủng hộ đó cũng đã khẳng định tính đúng đắn của chủ trương gắn cách mạng Việt Nam với thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đề ra, của đường lối chiến tranh nhân dân, phát huy sức mạnh tổng hợp trên cả ba mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao.
Trong sự nghiệp vĩ đại này, bà Nguyễn Thị Bình đã có đóng góp to lớn. Trong suốt thời gian diễn ra Hội nghị Paris, theo nhận xét của báo chí Pháp và phương Tây, bà Nguyễn Thị Bình trở thành ngôi sao sáng, một “Việt Cộng thực thụ thiết”, làm chấn động dư luận Paris và thế giới.
Với tư thế một phụ nữ trí trung, duyên dáng, đại diện cho nhân dân miền Nam chiến đấu, thông thạo giao tiếp, giỏi ngoại ngữ, bà Nguyễn Thị Bình đã rất khéo kết hợp đàm phán với vận động quốc tế. Bà cũng để lại nhiều ấn tượng đẹp đẽ, nhiều cảm tình sâu sắc và quý trọng của bạn bè thế giới đối với nhân dân Việt Nam và cá nhân bà. Chính vì vậy, bà đã trở thành một nhân vật, một chính khách nữ Việt Nam nổi tiếng trên thế giới. Có tiếng nói mạnh mẽ, khôn khéo và đầy bản lĩnh, được báo chí quốc tế đánh giá là “gương mặt phụ nữ nổi bật nhất trong bàn đàm phán lịch sử”.
người mở rộng quan hệ ngoại giao
Với Phong trào Không liên kết, từ năm 1970, Việt Nam đã bắt đầu vận động để tham gia Phong trào này. Trong cuộc vận động này, trên cương vị Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và với thế mạnh của ngoại giao hòa bình, trung lập, bà Nguyễn Thị Bình đã đi thăm nhiều nước, vận động để được mời tham gia Hội nghị Cấp cao Không liên kết họp ở Lusaka (Zambia), bà đã thành công tại nhiều nước, trong đó quan trọng nhất là tại Ấn Độ và Sri Lanka. Đây là hai nước thành viên không liên kết quan trọng đã từng dự Hội nghị Bandung.

Kết quả là Chính phủ Cách mạng lâm thời được mời tham dự Hội nghị Cấp cao Không liên kết ở Lusaka tháng 9/1970 và bà Nguyễn Thị Bình được mời phát biểu với sự ngưỡng mộ của nhiều nguyên thủ quốc gia và thủ tướng chính phủ.
Đến cuộc họp của Phong trào Không liên kết tại George Town tháng 8/1972, Chính phủ Cách mạng lâm thời được công nhận là thành viên chính thức của Phong trào. Vị thế của Việt Nam được nâng lên một bước. Sau giải phóng miền Nam, nước Việt Nam thống nhất kế thừa cương vị thành viên của Phong trào của Chính phủ Cách mạng lâm thời cho đến ngày nay.
Bà Nguyễn Thị Bình đã góp phần quan trọng trong việc mở rộng quan hệ ngoại giao của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam, vận động được sự công nhận chính thức của hơn 20 quốc gia và nhiều phong trào tiến bộ quốc tế.
Tham gia xây dựng nền tảng cho chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình của miền Nam Việt Nam, đặt nền móng cho thống nhất đất nước sau năm 1975 và chính sách ngoại giao độc lập.
Bà Nguyễn Thị Bình đã để lại dấu ấn đặc biệt trong lịch sử ngoại giao Việt Nam: là người đầu tiên và duy nhất đến nay từng ký một hiệp định quốc tế với đại diện chính phủ Hoa Kỳ trong thời chiến. Thành công của bà trong Hội nghị Paris là kết tinh của nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh: Kiên trì, nhân văn, bản lĩnh, trí tuệ và phù hợp với thời đại. Là tấm gương sáng về phụ nữ cách mạng trong đấu tranh quốc tế, lan tỏa hình ảnh phụ nữ Việt Nạm mạnh mẽ, trí tuệ, giàu lòng yêu nước.
cả đời cống hiến cho đảng, nhà nước và nhân dân
Lãnh đạo, điều hành đoàn đàm phán độc lập, chủ động: Bà Nguyễn Thị Bình đã tổ chức, chỉ đạo toàn bộ hoạt động của đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam tại Paris, độc lập về lập trường và chiến lược với đoàn đại diện của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Xây dựng và bảo vệ lập trường 10 điểm, sau này là 8 điểm, thể hiện rõ yêu cầu rút quân Mỹ, thừa nhận vai trò của Cách mạng lâm thời, và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam.
Giữ vững nguyên tắc đấu tranh nhưng luôn linh hoạt về chiến thuật, phối hợp chặt chẽ với các hoạt động đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao trong nước.

Thuyết phục và tạo sức ép đối với Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn: Bà Nguyễn Thị Bình trực tiếp tham gia 201 phiên họp công khai và hàng trăm phiên họp kín, kiên trì đấu tranh với phái đoàn Mỹ do các Bộ trưởng Ngoại giao, Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ dẫn đầu như Henry Kissinger. Từng bước làm thất bại luận điệu “miền Nam không có lực lượng đại diện chân chính”, buộc Mỹ phải công nhận vai trò chính thức của Cách mạng lâm thời tại bàn đàm phán. Chủ động đưa ra sáng kiến đàm phán riêng với Mỹ, làm thay đổi cục diện ngoại giao vốn bị chi phối bởi quan hệ Việt Nam – Mỹ – Sài Gòn.
Vận động quốc tế và dư luận tiến bộ: Bà Bình đã có các bài phát biểu lịch sử tại hội nghị với lý lẽ sắc bén, xúc động, lôi cuốn được sự ủng hộ rộng rãi từ dư luận quốc tế và phong trào phản chiến tại Mỹ, Pháp, Nhật, Đức... Tích cực gặp gỡ đại diện các đảng phái, tổ chức hòa bình, phong trào phụ nữ, tranh thủ được sự hậu thuẫn mạnh mẽ cho lập trường của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam.
Được báo chí quốc tế gọi là “người phụ nữ thép của bàn đàm phán”, hình ảnh bà Nguyễn Thị Bình trở thành biểu tượng của hòa bình, trí tuệ và bản lĩnh ngoại giao cách mạng. Ngoài ra, bà Nguyễn Thị Bình đã vận dụng linh hoạt nguyên tắc, phương pháp đàm phán khéo kết hợp đàm phán với vận động quốc tế. Bà cũng để lại nhiều ấn tượng đẹp đẽ, nhiều cảm tình sâu sắc và quý trọng của bạn bè thế giới đối với nhân dân Việt Nam và cá nhân bà. Chính vì vậy, bà đã trở thành một nhân vật, một chính khách nữ Việt Nam nổi tiếng trên thế giới.
Xây dựng đội ngũ ngoại giao miền Nam trong điều kiện chiến tranh. Vận động quốc tế rộng rãi tạo dư luận quốc tế ủng hộ. Phát huy vai trò ngoại giao nhân dân và ngoại giao đa phương.
Việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước: Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, đặc biệt là giai đoạn 1969 - 1976, trên cương vị Bộ trưởng Bộ Ngoại giao bà Nguyễn Thị Bình luôn thể hiện là người tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, chấp hành nghiêm túc và vận dụng linh hoạt các chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước vào thực tiễn công tác đối ngoại.
Kiên định lập trường chính trị theo đường lối ngoại giao của Đảng, bà đã quán triệt sâu sắc quan điểm ngoại giao của Đảng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ: vừa đấu tranh quân sự, vừa đấu tranh chính trị và ngoại giao, nhằm tạo thế, lực và thời cơ cho chiến thắng cuối cùng. Trong suốt tiến trình Hội nghị Paris, đồng chí luôn kiên trì bảo vệ các nguyên tắc cốt lõi trong Cương lĩnh, Nghị quyết của Đảng về độc lập dân tộc, quyền tự quyết của nhân dân miền Nam, giải phóng đất nước và thống nhất toàn vẹn lãnh thổ.
Gắn công tác đối ngoại với phục vụ sự nghiệp cách mạng: Việc triển khai đàm phán tại Paris luôn gắn bó mật thiết với sự chỉ đạo chiến lược của Trung ương Đảng, Ban Bí thư và Bộ Chính trị. Đồng chí thường xuyên báo cáo, xin chỉ đạo và tuân thủ nghiêm túc các chỉ thị ngoại giao từ trong nước.
Tích cực phối hợp giữa mặt trận ngoại giao và đấu tranh vũ trang, đồng thời kết nối nhuần nhuyễn giữa chủ trương của Đảng và vận động quốc tế, để nâng cao vị thế của lực lượng cách mạng miền Nam trong dư luận toàn cầu.
Nêu gương về đạo đức cách mạng, tinh thần trách nhiệm: Là cán bộ lãnh đạo chủ chốt, bà Nguyễn Thị Bình luôn chấp hành nghiêm chỉnh nguyên tắc tập trung dân chủ, đề cao tinh thần đoàn kết nội bộ, lắng nghe, tiếp thu ý kiến đóng góp của tập thể để xây dựng và thực hiện hiệu quả đường lối ngoại giao. Thực hành lối sống giản dị, liêm khiết, giữ gìn phẩm chất của người cán bộ cách mạng trong mọi hoàn cảnh, kể cả trong môi trường quốc tế đầy áp lực và phức tạp.
Góp phần thể chế hóa chủ trương đối ngoại của Đảng: Sau khi ký kết Hiệp định Paris, bà Nguyễn Thị Bình tiếp tục có nhiều đóng góp trong việc chuyển hóa thành quả ngoại giao vào tổ chức lại bộ máy chính quyền Chính phủ Cách mạng lâm thời và sau này là thống nhất đất nước. Tham gia xây dựng, phổ biến và tổ chức thực hiện các chính sách đối ngoại, chính sách thống nhất đất nước, hòa hợp dân tộc phù hợp với định hướng chính trị - pháp lý của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sau này là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.