Đất nước vươn mình...phải phát triển xanh

Nghị quyết số 57 ra đời như một cú hích chiến lược, không chỉ nhằm phát triển đất nước nhanh mà còn phát triển bền vững, phát triển xanh trong thời gian tới.

Để đất nước bước vào kỷ nguyên mới, vươn mình của dân tộc, phát triển xanh bền vững, phát triển dựa trên khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số… đòi hỏi nỗ lực chung từ Chính phủ, doanh nghiệp và cá nhân để tạo ra một tương lai bền vững, thịnh vượng hơn.

Năm 2025 đánh dấu nhiều sự kiện trọng đại, đồng thời cũng là năm cuối của nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng. Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu ấn tượng về chính trị, kinh tế, xã hội và vị thế quốc tế. Tuy nhiên, để bước vào giai đoạn phát triển bền vững, có tính đột phá và bắt nhịp với xu thế thời đại, vai trò của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KHCN & ĐMST) ngày càng được coi trọng.

Trong bối cảnh đó, Nghị quyết 57 ra đời như một cú hích chiến lược để đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và chuyển đổi số quốc gia. Với tầm vóc và nội dung sâu sắc, Nghị quyết 57 không chỉ là định hướng chiến lược mà còn là lời hiệu triệu đối với toàn bộ hệ thống chính trị và cộng đồng khoa học Việt Nam.

Là một giảng viên đại học từ 1972 đến 2020 và đã từng tham gia, chủ trì nhiều đề tài nghiên cứu khoa học (NCKH), tôi đã có hiểu biết ít nhiều về hoạt động NCKH của Việt Nam qua các thời kỳ với những quan điểm, cách tiếp cận, quản lý khác nhau.

Cụ thể, về các nhóm đối tượng hướng tới của Nghị quyết 57, việc nhận dạng các đối tượng hướng tới của Nghị quyết 57 sẽ giúp chúng ta tập trung phân tích, xem xét kỹ hơn những tác động của nghị quyết này.

Thứ nhất, nhóm cơ quan quản lý và lãnh đạo khoa học công nghệ. Cáccơ quan lãnh đạo và quản lý KH&CN đóng vai trò trung tâm, là “ông chủ” lớn trong việc hoạch định chính sách, phân bổ nguồn lực và tạo lập hành lang pháp lý thúc đẩy sáng tạo. Nghị quyết 57 xác định rõ vai trò của Nhà nước là người kiến tạo và dẫn dắt phát triển KHCN. Tuy nhiên, trong thực tế, cơ chế điều phối hiện nay còn thiếu tính chủ động và phân mảnh, dẫn tới sự chồng chéo trong phân cấp quản lý và sử dụng nguồn lực.

Việc hình thành những đề án tầm quốc gia như nghiên cứu năng lượng nguyên tử, AI, công nghệ sinh học... đòi hỏi phải có "người chủ nhiệm hệ thống" – những nhà quản lý có tầm nhìn, bản lĩnh, am hiểu KH&CN và có khả năng kết nối các nguồn lực đa ngành. Thiếu các “tổng công trình sư” trong lĩnh vực KH&CN là một thiếu hụt nghiêm trọng hiện nay.

Để khắc phục, cần xây dựng cơ chế tuyển chọn minh bạch, có tiêu chí đánh giá theo chuẩn quốc tế cho các vị trí này. Chỉ có những đề án lớn, đầu tư lớn, có mục tiêu rõ ràng, thời gian thực hiện đủ dài thì các dự án KH&CN mới có đầu ra không chỉ gói gọn trong sản phẩm mang tính học thuật mà còn là sản phẩm thương mại, hữu hình, cụ thể.

Thứ hai, các tổ chức nghiên cứu và nhà khoa học Việt Nam. Nếucác cơ quan quản lý là người đề ra chiến lược, thì các tổ chức nghiên cứu và nhà khoa học là lực lượng thực thi, là “người thực hiện”. Hiện nay, Việt Nam có hàng trăm viện nghiên cứu, trường đại học và trung tâm công nghệ, nhưng phần lớn còn hoạt động đơn lẻ, thiếu cơ chế phối hợp hiệu quả.

Điều kiện làm việc là yếu tố then chốt để nhà khoa học phát huy năng lực. Những câu chuyện thành công trong lịch sử (như GS Trần Đại Nghĩa, GS Đặng Văn Ngữ...) cho thấy vai trò đặc biệt của người đứng đầu quốc gia trong việc tạo điều kiện làm việc – nhưng thời đại ngày nay đòi hỏi phải có hệ thống hỗ trợ bền vững hơn: cơ sở vật chất hiện đại, kết nối quốc tế, cơ chế thu nhập và đãi ngộ tương xứng.

Một vấn đề khác là việc thu hút trí thức Việt kiều. Cần chính sách minh bạch, thực chất và đủ sức hấp dẫn, trong đó các yếu tố như môi trường học thuật, uy tín tổ chức, cơ hội tiếp cận thiết bị tiên tiến và đảm bảo quyền lợi lâu dài phải được đặc biệt lưu ý.

Cùng với đó, Nghị quyết 57 cũng hướng đến cơ sở hạ tầng khoa học và thị trường sản phẩm KH&CN. Hệthống phòng thí nghiệm, thiết bị nghiên cứu là nền tảng vật chất của mọi hoạt động KH&CN. Từ năm 2000, Chính phủ đã triển khai chương trình xây dựng Phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia (PTN TĐQG). Dù có một số thành tựu, nhưng việc sử dụng còn hạn chế do thiếu cơ chế khai thác chung, giá dịch vụ không rõ ràng, thiết bị bị phân tán, dẫn đến hiệu suất thấp. Một đề xuất quan trọng là cần thiết lập hệ thống cơ sở dữ liệu mở về thiết bị KH&CN trên phạm vi toàn quốc. Qua đó, các đơn vị có thể truy cập, chia sẻ, thuê mượn và đặt dịch vụ phân tích - thí nghiệm. Ngoài ra, cần có chiến lược quốc gia về sản phẩm KH&CN: chuyển từ kết quả học thuật sang sản phẩm thương mại có khả năng cạnh tranh, hướng đến thị trường nội địa và xuất khẩu.

Hiện tại, cơ chế xác định sản phẩm đầu ra còn nặng về hình thức (bài báo, báo cáo tổng kết...) mà thiếu những yêu cầu cụ thể về tính ứng dụng và chuyển giao. Cần thay đổi hệ thống tiêu chí đánh giá đề tài theo hướng định lượng kết quả đầu ra có khả năng thương mại hóa.

Ngoài ra, việc thúc đẩy xã hội hóa nghiên cứu khoa học cũng là mục tiêu Nghị quyết 57 hướng đến. Xã hội hóa KH&CN không đơn thuần là vận động tài trợ, mà phải được hiểu là quá trình đưa toàn bộ hệ sinh thái xã hội – doanh nghiệp – người dân – tổ chức nghề nghiệp cùng tham gia sáng tạo, đầu tư, sử dụng và thụ hưởng thành quả KH&CN.

Để thực hiện xã hội hóa hiệu quả, trước hết cần hoàn thiện thể chế về tài chính KH&CN ngoài ngân sách nhà nước. Hiện chưa có hành lang pháp lý rõ ràng cho hoạt động đầu tư mạo hiểm, quỹ tư nhân tài trợ cho nghiên cứu, cơ chế chia sẻ lợi nhuận – rủi ro giữa doanh nghiệp và tổ chức KH&CN. Đồng thời, việc kết nối cung – cầu trong KH&CN còn yếu. Chợ công nghệ, sàn giao dịch tri thức, các nền tảng trực tuyến mới chỉ dừng ở mức giới thiệu, chưa hình thành thị trường đúng nghĩa. Đây là thách thức nhưng cũng là cơ hội lớn cho các tổ chức KH&CN trong kỷ nguyên số.

Tóm lại, để thực hiện hiệu quả Nghị quyết 57, cần nhìn nhận đúng vai trò và thiết kế chính sách phù hợp cho từng nhóm đối tượng, đồng thời thúc đẩy sự phối hợp liên ngành, liên vùng, liên khu vực công – tư trong toàn bộ hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia.

Hiện trạng nguồn lực hiện nay cho thấy, Việt Nam có truyền thống đào tạo khoa học, nhưng thiếu hệ thống đánh giá và kết nối nhân lực hiệu quả. Cần khẩn trương xây dựng cơ sở dữ liệu toàn diện về đội ngũ KH&CN và cơ chế tuyển chọn chủ nhiệm đề án lớn theo chuẩn quốc tế.

Tuy nhiên, việc đầu tư trang thiết bị và cơ sở vật chất nghiên cứucòn dàn trải, thiếu sử dụng chung. Đề xuất thành lập trung tâm thiết bị dùng chung theo vùng và ngành, kèm quy chế tính chi phí dịch vụ minh bạch. Cần ưu tiên sản xuất thiết bị trong nước nhằm chủ động và giảm chi phí.

Bên cạnh đó, kinh phí và cơ chế tài chính cho KH&CN cần được quan tâm. Mụctiêu chi R&D 2% GDP đến 2030 là hợp lý, nhưng phải gắn với đổi mới cơ chế phân bổ – đấu thầu đề tài – đánh giá đầu ra. Khuyến nghị mở rộng Quỹ Nafosted, luật hóa cơ chế đầu tư mạo hiểm và có chính sách bảo lãnh cho doanh nghiệp tham gia KH&CN.

Việt Nam, một trong những quốc gia đang phát triển nhanh nhất ở Đông Nam Á, đang đặt mục tiêu phát triển kinh tế bền vững với trọng tâm là tăng trưởng xanh. Trong bối cảnh toàn cầu đang đối mặt với thách thức biến đổi khí hậu và sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, tăng trưởng xanh trở thành ưu tiên chiến lược quan trọng để đảm bảo sự phát triển lâu dài.

Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này, Việt Nam cần phải vượt qua nhiều rào cản và thách thức lớn. Tăng trưởng xanh không chỉ là vấn đề bảo vệ môi trường mà còn là cơ hội để phát triển nền kinh tế theo hướng bền vững, tối ưu hóa sử dụng tài nguyên, đồng thời giảm thiểu tác động tiêu cực đến thiên nhiên. Chính vì vậy, việc thúc đẩy các ngành công nghiệp xanh, năng lượng tái tạo, và sản xuất bền vững đã trở thành mục tiêu dài hạn của Chính phủ Việt Nam.

Chắc chắn, Nghị quyết 57 đặt ra không chỉ nhằm phát triển đất nước nhanh mà còn phải phát triển bền vững, phát triển xanh trong thời gian tới. Phát triển xanh là một khái niệm phức tạp và đa diện, đòi hỏi nỗ lực chung từ chính phủ, doanh nghiệp và cá nhân để tạo ra một tương lai bền vững và thịnh vượng hơn. Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số có thể làm rõ và hỗ trợ phát triển xanh theo các khía cạnh/hoạt động sau mà Việt Nam phải nhanh chóng thực hiện:

Làm rõ hơn, cụ thể hơn nội hàm phát triển xanh, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn,… và hiện trạng, khả năng áp dụng ở Việt Nam. Phải có cách cân đong, đo đếm, xác định mức độ “xanh” trong phát triển, trong kinh tế nói chung và các ngành nói riêng cũng như trong hoạt động sống con người. Rất nhiều định nghĩa, khái niệm về phát triển xanh nhưng đều thống nhất khía cạnh giảm thiểu tác động đến môi trường và xem xét các hệ thống sinh thái, kinh tế và xã hội theo cách cân bằng. Đã có nhiều cách xác định mức độ “xanh” nhưng cần làm rõ hơn khả năng áp dụng ở Việt Nam, đặc biệt là cách tính mức thải (chất ô nhiễm, chất khí nhà kính) trên một đơn vị hàng hóa hay mức tiêu thụ tài nguyên khi sản xuất một đơn vị hàng hóa.

Tiến hành kiểm kê mức phát thải chất ô nhiễm (khí, nước, rắn), phát thải chất khí nhà kính đến tận các ngành sản xuất, đơn vị sản xuất, cộng đồng dân cư và xây dựng cơ sở dữ liệu về phát thải. Theo tôi nghĩ, đến năm 2030 phải có cơ sở dữ liệu hoàn chỉnh, dễ cập nhật, trích xuất và sử dụng. Khi đã số hóa đến mức này thì có thể dùng chính số liệu này để tính các mức xanh của hoạt động phát triển, đặc biệt là đo mức phát thải ròng khí nhà kính để có kế hoạch đảm bảo NetZero vào năm 2050.

Áp dụng các phương pháp tính toán làm rõ hiệu quả của hoạt động phát triển xanh bằng cách so sánh định lượng (bằng tiền tệ) giữa chi phí và lợi ích thu được khi tiến hành các hoạt động phát triển xanh. Chẳng hạn, làm rõ hiệu quả của việc phát triển điện gió, điện mặt trời liên quan đến giảm phát thải chất ô nhiễm, chất khí nhà kính khi giảm phát triển nhiệt điện.

Phát triển khoa học công nghệ rất nhanh, có nhiều đổi mới sáng tạo, đặc biệt là trong chuyển đổi số, trong trí tuệ nhân tạo nên các nhà khoa học, các nhà quản lý phát triển Việt Nam phải liên tục theo dõi nắm bắt và tìm cách áp dụng để đạt mục tiêu phát triển xanh với kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn được triển khai hiệu quả.

Từ những phân tích trên, chúng ta có thể khẳng định, Nghị quyết 57-NQ/TW ra đời trong một thời điểm chiến lược, khi Việt Nam đã tích lũy được những điều kiện nền tảng cho việc đột phá trong KH&CN. Đội ngũ nhà khoa học đông đảo, ngày càng hội nhập quốc tế; cơ sở vật chất nghiên cứu được tăng cường mạnh mẽ trong 20 năm qua; mô hình viện – doanh nghiệp đang hình thành và phát triển; cùng với đó là hệ thống pháp lý dần được hoàn thiện là những yếu tố tích cực tạo tiền đề cho việc triển khai Nghị quyết 57.

Tuy nhiên, nếu không có các hành động cụ thể, đồng bộ và mang tính hệ thống thì nguy cơ Nghị quyết 57 trở thành một văn bản chỉ mang ý nghĩa định hướng sẽ rất cao.

Do đó, tôi xin đưa ra một số đề xuất, kiến nghị. Thứ nhất, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về đội ngũ nghiên cứu khoa học – công nghệ, đặc biệt là những người có thể đảm nhận vai trò "tổng công trình sư" trong các chương trình KH&CN liên ngành, đa lĩnh vực.

Thứ hai, đổi mới mạnh mẽ cơ chế tài chính, đặc biệt là khuyến khích cơ chế đầu tư mạo hiểm, cơ chế đặt hàng nghiên cứu từ doanh nghiệp và xã hội, và cơ chế đánh giá kết quả KH&CN dựa trên tác động thực tiễn thay vì chỉ dựa trên số lượng bài báo.

Đẩy mạnh thương mại hóa sản phẩm khoa học, chuyển mạnh từ "nghiên cứu để công bố" sang "nghiên cứu để áp dụng và thương mại hóa". Cần hình thành các trung tâm ươm tạo KH&CN quốc gia kết nối chặt với doanh nghiệp.

Phát triển hạ tầng số trong KH&CN, bao gồm hệ thống dữ liệu mở, nền tảng kết nối phòng thí nghiệm, và hệ thống quản lý tài sản trí tuệ đồng bộ toàn quốc. Phát triển văn hóa khoa học, trong đó đề cao sự trung thực học thuật, tinh thần hợp tác và sự tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ. Đây là yếu tố quyết định tạo dựng hệ sinh thái khoa học phát triển lành mạnh, bền vững.

Đảm bảo phát triển xanh, phát triển bền vững. Phát triển khoa học công nghệ phải hướng tới phục vụ hoạt động phát triển giảm thiểu tác động đến môi trường và xem xét các hệ thống sinh thái, kinh tế và xã hội theo cách cân bằng.

Khi những hành động đó được đồng bộ hóa và thực hiện với quyết tâm cao, chúng ta hoàn toàn có thể kỳ vọng rằng trong vòng 10 - 15 năm tới, Việt Nam sẽ không chỉ là nước tiếp thu công nghệ, mà còn có khả năng sáng tạo, làm chủ và xuất khẩu công nghệ ra khu vực và thế giới.

Nguồn Tri Thức & Cuộc Sống: https://kienthuc.net.vn/e-magazine-dat-nuoc-vuon-minhphai-phat-trien-xanh-post1548956.html
Zalo