Đất nước đứng lên từ Tuyên ngôn độc lập

Trong suốt chiều dài dựng nước và giữ nước, đất nước đã có nhiều phen lâm nguy vì giặc xâm lăng, nô lệ, nhưng nhờ tinh thần yêu nước, thương nòi, dân ta lại quật cường đứng lên đánh đuổi xâm lược, giành lại độc lập. Và cũng trong suốt chiều dài dựng nước và giữ nước ấy, đã có những bản tuyên ngôn vang lên như một chân lý không thể đổi thay:'Nước Việt Nam là của người Việt Nam' và 'Không có gì quý hơn độc lập, tự do'!

Từ “Sông núi nước Nam vua Nam ở”…

Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng viết trong hồi ký của mình rằng cuộc đấu tranh hiện nay “không thể tách rời truyền thống thượng võ lâu đời của Nhân dân ta”. Đó là cuộc đấu tranh chống ngoại xâm gần như liên tục và cuộc đấu tranh này như một anh hùng ca đầy những chiến công hiển hách.

Thực vậy, ở Việt Nam, mỗi giai đoạn lịch sử đều vang dội lời tuyên ngôn mạnh mẽ. Từ bài thơ “Nam quốc sơn hà” (năm 891), “Bình Ngô đại cáo” (năm 1428) đến bản “Tuyên ngôn Độc lập” do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, ngày 2/9/1945. Sự tiếp nối đó là cuộc chiến giành tự do, độc lập gian khổ nhưng đầy tự hào của người Việt.

“Nam quốc sơn hà” vốn là một bài thơ Hán văn thất ngôn tứ tuyệt và không có tên. Tên gọi “Nam quốc sơn hà” là do những người biên soạn cuốn sách Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập 2 (sách do Nhà xuất bản Văn học xuất bản năm 1976) đặt ra, lấy từ bốn chữ đầu trong câu thơ đầu tiên của bài thơ này (Nam quốc sơn hà Nam đế cư).

Đây là bài thơ có ít nhất là 35 dị bản sách và 8 dị bản thần tích. Thư tịch đầu tiên có chép bài thơ này là sách “Việt điện u linh tập”, song bản “Nam quốc sơn hà” trong “Việt điện u linh tập” không phải là bản được biết đến nhiều nhất, bản ghi trong “Đại Việt sử ký toàn thư” mới là bản được nhiều người biết nhất: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư/Tiệt nhiên phận định tại thiên thư/Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm/Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”.

Trong số nhiều bản dịch thơ, bản của Lê Thước và Nam Trân đã được đưa vào trong sách giáo khoa Ngữ văn 7, tập 1 do Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam xuất bản năm 2003 với một chút sửa đổi so với bản dịch gốc, nội dung như sau: “Sông núi nước Nam vua Nam ở/Vằng vặc sách trời chia xứ sở/Giặc dữ cớ sao phạm đến đây/Chúng mày nhất định phải tan vỡ”.

Bài thơ khẳng định một chân lý lịch sử: nước Nam là một quốc gia có lãnh thổ riêng, cương giới riêng đã được xác định rõ ràng. Dân tộc ta là chủ nhân của đất nước ta. Giặc ngoại bang đến xâm phạm chủ quyền của đất nước, tất nhiên sẽ bị Nhân dân đánh bại. Và lịch sử đã chứng minh rằng Nhân dân ta đã chiến thắng oanh liệt quân Tống xâm lược vào tháng 3/1077.

Lý Thường Kiệt lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Tống lần thứ hai vào thế kỷ thứ XI, giành thắng lợi là một trong những chiến công chói lọi trong trang sử vàng về bảo vệ và khẳng định chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam. Bài thơ “Nam quốc sơn hà” vang vọng trên tuyến sông Như Nguyệt (sông Cầu) đã đi vào lịch sử dân tộc như bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam.

“Bình Ngô đại cáo” viết vào mùa xuân năm 1428 thay lời Bình Định Vương Lê Lợi để tuyên cáo kết thúc việc giành chiến thắng trong cuộc kháng chiến với nhà Minh, khẳng định sự độc lập của nước Đại Việt. Đây được coi là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam. Cuốn “Việt Nam sử lược” cho biết: “Bình Định Vương (Lê Lợi) dẹp xong giặc Minh rồi, sai ông Nguyễn Trãi làm tờ báo cáo cho thiên hạ biết. Tờ “Bình Ngô đại cáo” này làm bằng Hán văn, là một bản văn chương rất có giá trị trong đời Lê”.

Vào năm 1427, quân khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi trên mọi mặt trận, đánh tan hai đạo quân viện binh của quân Minh do Liễu Thăng và Mộc Thạnh chỉ huy. Vương Thông đang cố thủ trong thành Đông Quan biết tin, hoảng sợ viết thư xin hòa. Lê Thái Tổ chấp thuận, sai sứ mang tờ biểu và vật phẩm sang nhà Minh, vua Minh sai quan Lễ Bộ Thị Lang là Lý Kỳ đưa chiếu sang phong cho Trần Cảo làm An Nam Quốc Vương.

Tháng chạp năm Đinh Mùi, Vương Thông theo lời ước với Bình Định Vương Lê Lợi, đem bộ binh qua sông Nhị Hà, còn thủy quân theo sau. Vì quân Minh tàn bạo, có người khuyên Lê Lợi đem quân mà giết hết đi, Lê Lợi không chấp thuận, cấp lương thảo và vật dụng cho quân Minh trở về: “Phục thù báo oán là cái thường tình của mọi người, nhưng cái bản tâm người có nhân không muốn giết người bao giờ. Vả người ta đã hàng mà lại còn giết thì không hay. Nếu mình muốn thỏa cơn giận một lúc, mà chịu cái tiếng muôn đời giết kẻ hàng, thì sao bằng để cho muôn vạn con người sống mà khỏi được cái mối tranh chiến về đời sau, lại để tiếng thơm lưu truyền thiên cổ trong sử xanh”.

“Bình Ngô đại cáo” được ra đời trong bối cảnh thắng lợi đó, được dịch sang tiếng Việt bởi một số học giả như Ngô Tất Tố, Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim. Theo giới nghiên cứu lịch sử, văn chương đánh giá, Nguyễn Trãi viết “Bình Ngô đại cáo” không chỉ tuyên bố độc lập, mà còn khẳng định sự bình đẳng của Đại Việt với Trung Hoa trong lịch sử từ trước đến nay và thể hiện nhiều ý tưởng về sự công bằng, vai trò của người dân trong lịch sử và cách giành chiến thắng của quân khởi nghĩa Lam Sơn. Ngoài ra, Nguyễn Trãi sử dụng “Bình Ngô đại cáo” để chứng minh tính chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và trả lời câu hỏi tại sao quân khởi nghĩa Lam Sơn có thể chiến thắng quân đội nhà Minh, đó chính là chính sách dựa vào Nhân dân.

Bằng lời lẽ đanh thép, ngắn gọn, “Bình Ngô đại cáo” như bản hùng ca bất tận về sự chiến đấu ngoan cường của Nhân dân Đại Việt trước sự hung tàn của kẻ thù xâm lăng. Đây là bản Tuyên ngôn thứ hai khẳng định sự độc lập, chủ quyền của dân tộc trước toàn dân, các nước láng giềng và kẻ thù xâm lược: “Như nước Đại Việt ta từ trước/Vốn xưng nền văn hiến đã lâu/Núi sông bờ cõi đã chia/Phong tục Bắc Nam cũng khác/Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập/Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương/… Xã tắc từ đây vững bền/Giang sơn từ đây đổi mới/Kiền khôn bĩ rồi lại thái/Nhật nguyệt hối rồi lại minh/Muôn thuở nền thái bình vững chắc”.

Đến “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập”

Bản “Tuyên ngôn độc lập” năm 1945 ra đời cùng cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khi Việt Minh tận dụng thời cơ Nhật Bản đầu hàng quân đồng minh để tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn quốc từ ngày 14/8/1945 và giành thắng lợi hoàn toàn vào ngày 28/8/1945. Ngày 30/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh mời một số người đến góp ý cho bản “Tuyên ngôn độc lập” do Người soạn thảo. Ngày 31/8/1945, Người bổ sung thêm cho dự thảo Tuyên ngôn độc lập.

Ngày 2/9/1945, Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” trong cuộc mít tinh trước hàng chục vạn quần chúng, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông Trần Trọng Tân, nguyên Trưởng Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương) đã phân tích về ý nghĩa lịch sử của bản Tuyên ngôn độc lập: “Nếu bốn câu thơ thần “Nam quốc sơn hà” và bản “Bình Ngô đại cáo” được suy ra để cho rằng nó có ý nghĩa là những bản tuyên ngôn độc lập, thì bản “Tuyên ngôn độc lập” ngày 2/9/1945 thật sự là một bản Tuyên ngôn độc lập do Bác Hồ soạn thảo.

Ðây là bản Tuyên ngôn độc lập có nội dung, bản chất rất mới. Nó đánh dấu cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi mang tính nhân dân rất sâu sắc, thật sự là “đem sức ta tự giải phóng cho ta”. Giành độc lập là để dân làm chủ. Việc Chính phủ lâm thời ra đời với bản “Tuyên ngôn độc lập” ngày 2/9/1945, làm cho các lực lượng quân đồng minh đổ bộ vào Việt Nam sau đó phải tiếp xúc với chính quyền cách mạng, không còn cách nào khác.

Ðáng lưu ý là mở đầu, từ bản “Tuyên ngôn độc lập” năm 1776 của nước Mỹ và bản “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” của cách mạng Pháp năm 1791, với bản “Tuyên ngôn độc lập” ngày 2/9/1945 đã nêu ra một chân lý lịch sử: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”, “đó là lẽ phải không ai chối cãi được”. Nêu ra như vậy là từ dự báo về thực dân Pháp, đế quốc Mỹ còn đến xâm lược Việt Nam, khi đó sẽ lộ bộ mặt phi nghĩa, trái với đạo lý từ chính các Tuyên ngôn năm 1776 và năm 1791 đã đề ra.

Lời tuyên ngôn khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã kết thúc mạnh mẽ, vững vàng, kiên định con đường mà dân tộc Việt Nam đã chọn: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập… Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

Tinh thần bản “Tuyên ngôn Ðộc lập” ngày 2/9/1945 không chỉ bởi giá trị lịch sử, pháp lý mà còn bởi giá trị nhân văn cao cả về quyền con người, quyền của dân tộc được sống trong độc lập, tự do như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ấp ủ và cống hiến cả cuộc đời mình để thực hiện.

Tuấn Ngọc

Nguồn Pháp Luật VN: https://baophapluat.vn/dat-nuoc-dung-len-tu-tuyen-ngon-doc-lap.html
Zalo