Đất làng Phú Nhi
Làng Phú Nhi có lịch sử lập dựng cách ngày nay gần 6 thế kỷ. Dẫu vậy, dân gian trong vùng tin rằng, cách ngày nay đến cả nghìn năm, vùng đất này đã bắt đầu có con người đến cư ngụ. Và trong giai đoạn tiền khởi nghĩa, Phú Nhi còn được biết đến là một trong những 'cái nôi' nuôi giấu cách mạng - là làng 'Có công với nước'.

Người dân Phú Nhi đã tôn ông Lê Phúc - người có công khai mở vùng đất châu An Thiện làm Thành hoàng làng.
Làng Phú Nhi trước đây thuộc xã Hưng Lộc (Hậu Lộc), nay thuộc xã Vạn Lộc. Trước thời nhà Đinh, khu vực phía Đông kênh De (bao gồm làng Phú Nhi) vốn là vùng đất biển bồi lắng, còn hoang vu. Đến thời Tiền Lê, làng thuộc châu An Thiện.
Thời bấy giờ, có vị tổng binh đô đốc Lê Phúc được cử làm trấn thủ vùng đất Thanh Hoa (Thanh Hóa). Đến đây, khi qua vùng đất ven biển thị sát, thấy đất đai rộng lớn, có sông ngòi bao quanh, điều kiện tự nhiên thuận lợi nên đã chiêu tập người các dòng họ đến đây lập nghiệp và đặt tên châu An Thiện. An Thiện được hiểu là vùng đất yên ổn, dân cư lương thiện, hiền lành..
Tương truyền, ông Lê Phúc vốn người đất Nghệ An, là người giỏi võ nghệ, vùng đất châu An Thiện nhờ công của ông mà được khai hoang. Ông từng theo vua Lê (Tiền Lê) đi đánh giặc Tống xâm lược ở phía Bắc. Khi ở phương Nam có giặc Chiêm Thành quấy phá, nhà vua lại giao ông lĩnh quân đi đánh dẹp. Trước khi lên đường, ông từng về đất An Thiện lập đàn cáo yết thần linh cầu mong “âm phù, dương trợ”. Trước đêm ra trận, ông mộng thấy vị thần dáng mạo kỳ lạ tự xưng “Đông Hải Đại Vương” nghe tin ông đem quân đi dẹp giặc giữ yên bờ cõi, nên sẽ đi theo phù trợ. Ngày hôm sau, đại quân của ông Lê Phúc theo đường thủy xuất binh, trời yên biển lặng, thuận buồm xuôi gió, đánh tan giặc quấy phá.
Sau khi ông Lê Phúc mất, nhớ ơn người đã có công khai phá lập nên vùng đất ven biển, người dân châu An Thiện đã lập dựng đền thờ tưởng nhớ. Đến thế kỷ 13, vua Trần khi đi đánh dẹp giặc Chiêm Thành qua đất châu An Thiện đã dừng lại đền làm lễ. Thắng trận trở về, nhà vua ban tặng cho thần mỹ tự “Thượng đẳng thần”.
Thời hậu Lê, dưới triều vua Lê Thánh Tông, châu An Thiện được chia thành hai xã Yên Nhân và Yên Giáo với các làng, trong đó có làng Phú Nhi.
Căn cứ tộc phả các dòng họ và lưu truyền dân gian, làng Phú Nhi được lập dựng thời vua Lê Thánh Tông. Bấy giờ không chỉ có cư dân của châu An Thiện trước đó, mà còn có cả người của các dòng họ từ Nghệ An ra và phía Bắc vào. Có dòng họ đã cư ngụ ở Phú Nhi đến 15, 16 đời, như họ Vũ, họ Mai, họ Lê...
“Phú Nhi là một trong những làng lớn, dân cư đông đúc, đất đai rộng lớn màu mỡ, phía Bắc giáp sông Lèn đoạn chảy về Lạch Sung và làng Mỹ Khúc. Phía Nam giáp làng Lưu Đông, làng Hụ, làng De. Phía Đông giáp làng Yên Lãnh, Yên Lương, Phú Lương. Phía Tây giáp kênh De đoạn nối với sông Lèn. Do vị trí khu vực cư trú như vậy nên giao thông đường thủy của Phú Nhi rất thuận lợi...” (sách Phú Nhi xưa và nay).
Giai đoạn tiền khởi nghĩa, Phú Nhi là một trong những cái nôi của phong trào cách mạng. Người đầu tiên ở Phú Nhi giác ngộ cách mạng là ông Lê Kỷ. Năm 1939, ông Lê Kỷ đã kết nối với đồng chí Đinh Chương Lân (con trai cụ Đinh Chương Dương) để bàn bạc và xây dựng cơ sở cách mạng ở Phú Nhi. Từ đây, trên đất làng Phú Nhi, các hội ái hữu được thành lập - vừa để người dân giúp nhau khi gặp khó khăn, cũng đồng thời để tập hợp lực lượng giác ngộ cách mạng.
Khi cơ sở in ấn tài liệu của Đảng ở vùng Hanh Cù, Y Vích, Lộc Tiên (thuộc huyện Hậu Lộc trước đây) bị kẻ địch phát hiện, lùng sục và bắt bớ, Phú Nhi trở thành “căn cứ” mới để cất giấu dụng cụ in ấn. Cũng tại Phú Nhi, đồng chí Tố Hữu đã gặp đồng chí Đinh Chương Lân để bàn kế hoạch chống lại việc đàn áp của kẻ thù.
Trong những năm tháng tiền khởi nghĩa đầy gian khó, đất và người làng Phú Nhi đã góp của, góp công để phong trào cách mạng được “bén rễ” và từng bước phát triển, chuẩn bị mọi điều kiện cần và đủ cho Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công.

Làng Phú Nhi, xã Vạn Lộc.
Năm 1995, đồng chí Tố Hữu trong thư gửi dân làng Phú Nhi, đã viết: “Trong những ngày sống và hoạt động tại Phú Nhi, chúng tôi được các đồng chí và đồng bào hết lòng đùm bọc, bảo vệ với tinh thần cách mạng cao quý. Đặc biệt giữa những tháng đói rét, nhiều người chết bi thảm, bà con vẫn tìm mọi cách để có rau, có cháo, thính trấu, bã nâu để nuôi sống chúng tôi hoạt động”.
Với những đóng góp cho cách mạng của đất và người làng Phú Nhi, năm 2004, Thủ tướng Chính phủ đã tặng Bằng có công với nước cho Nhân dân, cán bộ làng Phú Nhi,
Ông Hoàng Văn Đoán, bí thư chi bộ, trưởng ban công tác mặt trận thôn Phú Nhi, tự hào: “Ở Phú Nhi từ xa xưa đến hôm nay, đoàn kết vẫn luôn là một truyền thống tốt đẹp được coi trọng, đề cao. Nhờ tinh thần đoàn kết, dân làng Phú Nhi đã cùng nhau vượt mọi gian khó, vươn lên trong quá trình dựng xây, lập nên xóm làng. Ngày nay, cũng bởi tinh thần đoàn kết, sẻ chia, nỗ lực không ngừng, Phú Nhi đã và đang từng bước đổi thay, phát triển, phấn đấu trở thành miền quê đáng sống”.
Lại nói, ở Phú Nhi, từ khi làng được lập, nhớ ơn ông Lê Phúc đã có công lập nên vùng đất An Thiện, dân làng Phú Nhi đã lập dựng đền thờ, tôn ông Lê Phúc làm Thành hoàng làng. Dân gian thường gọi là đền làng Phú Nhi.
Dẫn chúng tôi vào đền, thắp nén hương thơm tưởng thớ Thành hoàng làng, ông Mai Văn Từ, thủ từ đền làng Phú Nhi, chia sẻ: “Ở Phú Nhi từ xưa đến nay, đời sống văn hóa tín ngưỡng luôn được coi trọng. Trước đây ở làng, ngoài đền thờ Thành hoàng làng Lê Phúc, còn có chùa và cây đa to lớn hàng trăm năm tuổi. Tuy nhiên, trải qua biến thiên thời gian và những biến động, các di tích không còn nguyên vẹn. Đầu những năm 2000, di tích đền làng Phú Nhi bắt đầu được tôn tạo. Hằng năm, vào ngày 10 tháng 2 (âm lịch), dân làng Phú Nhi và con cháu xa quê theo chân nhau về đền tổ chức hội làng, bày tỏ lòng biết ơn đến thần linh, các thế hệ tiền nhân đã có công lập làng và cùng cầu mong những điều tốt đẹp".
(Bài viết có tham khảo, sử dụng nội dung trong sách Phú Nhi xưa và nay, NXB Thanh Hóa, 2011; cùng một số tài liệu lưu giữ tại địa phương).































