Đất hiếm Việt Nam đứng thứ hai thế giới, sẽ hạn chế tối đa xuất khẩu thô
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết đến nay đã cơ bản 'khoanh' được các khu vực mỏ đất hiếm, sẽ trình Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia về đất hiếm năm 2026 và hình thành một chuỗi giá trị khép kín, hạn chế tối đa xuất khẩu nguyên liệu thô.

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng
Hôm nay (1/12), Quốc hội thảo luận ở hội trường dự án Luật Sửa đổi, bổ sung Luật địa chất và khoáng sản. Điểm mới đáng chú ý của dự thảo luật là bổ sung một chương riêng về quản lý đất hiếm.
Đại biểu Trịnh Xuân An (Đồng Nai) cho rằng đây là thành công lớn của dự thảo, trong bối cảnh quản lý đất hiếm cũng như làm chủ công nghệ đất hiếm ngày càng có vai trò, ý nghĩa quan trọng trong khẳng định vị thế tự lực, tự cường của Việt Nam.
Theo đại biểu, Việt Nam hiện đứng thứ hai thế giới về trữ lượng đất hiếm. Trên thế giới, đôi khi đất hiếm được các cường quốc sử dụng để "mặc cả", gây sức ép với nhau, nhất là về an ninh, quốc phòng. Vì vậy, dự thảo luật cần quan tâm đến yếu tố này. Theo đó, đại biểu đề xuất, dự thảo cần quy định phải có những mỏ đất hiếm hoặc khu dự trữ dành riêng cho phục vụ quốc phòng và an ninh. Hai nữa, cần phải bổ sung quy định về kiểm soát công nghệ và dữ liệu liên quan đến đất hiếm, đặc biệt liên quan đến quốc phòng, an ninh. Dữ liệu về đất hiếm có thể là thuộc danh mục bí mật nhà nước.
Ngoài ra, đại biểu cũng kiến nghị phải quản lý đất hiếm đối lĩnh vực quốc phòng. Một số nội dung có thể cấm khai thác và cho phép chỉ khai thác phục vụ cho công nghiệp quốc phòng. Dự thảo luật cần làm rõ hơn vai trò của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, nhất là vai trò của Bộ Quốc phòng trong việc thẩm định chương trình, thẩm định việc khai thác mỏ, quyết định chương trình quốc gia về đất hiếm.
Đại biểu Trịnh Thị Tú Anh (Lâm Đồng) cũng cho rằng, bổ sung một chương riêng về đất hiếm là đúng thời điểm, phù hợp với bối cảnh thế giới đang cạnh tranh mạnh mẽ về vật liệu chiến lược, năng lượng tái tạo và chuỗi cung ứng công nghệ cao. Đất hiếm là nền tảng của bán dẫn, xe điện, quốc phòng, thiết bị y tế và nhiều ngành công nghiệp mũi nhọn. Việc xác định đất hiếm là tài nguyên đặc biệt quan trọng cần được quản lý thống nhất ở cấp quốc gia, là định hướng hoàn toàn phù hợp với yêu cầu phát triển dài hạn của đất nước.
Dù vậy, đại biểu cũng cảnh báo, quản lý đất hiếm cần chú trọng đến yếu tố môi trường. Thực tế, đất hiếm không chỉ là khoáng sản chiến lược mà còn là nhóm tài nguyên có hệ số rủi ro môi trường rất lớn, trong toàn bộ chuỗi tuyển, tách đều phát sinh chất thải phóng xạ tự nhiên Thori, Uran ở nồng độ thấp. Ngoài ra, còn có hỗn hợp kim loại nặng và dung dịch axit ở mức độ khó xử lý nếu không có công nghệ tiên tiến. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, những quốc gia từng phát triển đất hiếm ồ ạt nhưng thiếu kiểm soát đã phải đối mặt với những vùng ô nhiễm phóng xạ tồn lưu, chi phí xử lý và phục hồi môi trường lớn gấp nhiều lần giá trị kinh tế thu được. Đây là bài học đắt giá mà Việt Nam không thể lặp lại.
"Tôi đề nghị cần nhấn mạnh vai trò giám sát độc lập của cơ quan an toàn bức xạ và hạt nhân quốc gia trong toàn bộ hoạt động tuyển tách, chế biến đất hiếm từ thẩm định công nghệ, đánh giá rủi ro, kiểm tra hiện trường đến giám sát xử lý chất thải và phục hồi môi trường", đại biểu đề nghị.
Cũng dành sự quan tâm tới đất hiếm, đại biểu Phạm Văn Hòa (Đồng Tháp) cho rằng, khoáng sản thì nhiều nhưng đất hiếm thì chỉ có trữ lượng nhất định, nên trong quá trình khai thác phải quản lý chặt, nếu không sẽ dẫn tới việc khai thác bừa bãi, người dân cũng khai thác được và lén bán đất hiếm nếu không quản lý nghiêm.
Về nội dung này, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng khẳng định, nước ta là một nước có trữ lượng đất hiếm lớn thứ hai, thứ ba trên thế giới và nằm ở 21 tỉnh, thành phố. Hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã khoanh cơ bản đầy đủ các khu vực mỏ có khoáng sản và đang chủ trì cùng với các bộ, ngành để xây dựng chiến lược quốc gia về đất hiếm. Chiến lược sẽ được trình Chính phủ và cấp có thẩm quyền ban hành đầu năm 2026. Sau khi xây dựng chiến lược, bước quan trọng là khai thác, chế biến sâu để mang lại lợi ích cho đất nước.
"Chúng tôi tin rằng đất hiếm sẽ thực sự trở thành một tài nguyên quan trọng để phát triển đất nước trong thời gian tới trên tinh thần hình thành một chuỗi giá trị khép kín và hạn chế tối đa xuất khẩu nguyên liệu thô", Bộ trưởng khẳng định.





























