'Dân ơi' - tình quê, tình người trong bão lụt
Sức mạnh hủy diệt của thiên tai, lũ lụt đối với con người quả là rất kinh khủng. Nhưng với niềm tin mãnh liệt 'còn da lông mọc, còn chồi nảy cây', dân tộc này luôn hướng về tương lai với những điều đẹp đẽ sẽ đến.

Hình ảnh làng quê bị nước lũ cô lập. Nguồn: Internet
Mấy ngày qua, một số tỉnh ở miền Bắc và miền Trung liên tiếp gánh chịu thiên tai với những trận bão chồng bão, áp thấp chồng áp thấp... khiến núi lở, đồi sạt, đê vỡ; không ít xóm làng ngập chìm trong biển nước. Hà Nội và nhiều thành phố khác có nhiều tuyến đường, con phố tức thời biến thành “sông”, thành “vịnh”, thành “cảng nước sâu”... Nhìn dòng nước cuồn cuộn chảy trên các ngả đường, xe cộ như thể đang trôi nổi, dập dềnh trên những dòng sông; những mái nhà nhấp nhô, ngoi ngóp giữa biển nước; ca nô chạy, thuyền bơi trong phố, khắp làng... bất chợt tôi nhớ đến bài thơ “Dân ơi” của nhà thơ Nguyễn Duy.
Năm nay lại lụt trắng đồng
Quê ta lại tỏng tòng tong mùa màng
Làng ta lại lóp ngóp làng
Lòng ta lại ếch nhái hoang cả lòng
Bà con mấy bữa nhiều không?
Những ai bị gậy phiêu bồng chân mây?
Bóng ai loẻo khoẻo hình cây?
Căm căm gió bấc thế này… làm sao?...
Bạn ơi dù có thế nào
Giữ cho nhau sắc hoa đào ngàn năm
Tốt lành lời chúc sang xuân
Nén nhang bái tổ khấn thầm… dân ơi!...
(Gửi về quê nhà, nhân dịp Xuân Đinh Sửu, 1997 – theo ThiVien.net)
Đọc bài thơ, chúng ta dễ hình dung được cảm hứng ra đời của thi phẩm. Tôi nhớ, hồi cuối năm 1996, những trận bão, những cơn áp thấp nhiệt đới đã gây lũ lụt nặng nề ở miền Trung, trong đó có Thanh Hóa – quê hương của nhà thơ Nguyễn Duy. Trong bối cảnh ấy, từ trời Nam xa xôi, Nguyễn Duy không nguôi nhớ về quê hương, trong lòng không sao tránh khỏi những thấp thỏm, đau đáu hướng về quê nhà. Và cũng chính từ nỗi niềm ấy, người con xa xứ đã tái hiện trong tâm trí người đọc hình ảnh ngập lụt của làng quê mình một cách vô cùng ám ảnh:
“Năm nay lại lụt trắng đồng
Quê ta lại tỏng tòng tong mùa màng
Làng ta lại lóp ngóp làng
Lòng ta lại ếch nhái hoang cả lòng”
Thanh Hóa – quê hương của nhà thơ Nguyễn Duy – thuộc Bắc Trung Bộ. Mảnh đất ấy được thiên nhiên ưu đãi nhiều thứ, nhưng cũng là nơi thường xuyên phải hứng chịu bão lụt, hầu như năm nào cũng có bão, nhất là vào các tháng cuối mùa hạ, đầu mùa thu.
Các hình ảnh “lụt trắng đồng”, “tỏng tòng tong mùa màng”, “lóp ngóp làng”, tiếng “ếch nhái” trong khổ thơ đã gợi lên cảnh ngập úng sau bão mà người dân quê đang phải gánh chịu. Đó là cảnh đồng ruộng mênh mông nước ngập, mùa màng thất bát; bốn bề làng xóm, nhà cửa chìm trong biển nước như đang cố ngoi lên thoi thóp; không gian làng quê tiêu điều, hoang vắng chỉ còn nghe thấy tiếng ếch nhái vang vọng.
Hình như không quá chú trọng việc tả thực, Nguyễn Duy dụng ý gợi hơn là tả. Cho nên, nhà thơ có vẻ dụng công trong việc xây dựng hình ảnh – những hình ảnh không chỉ gợi hình mà còn gợi cảm. Bởi thế, dù chỉ dăm ba hình ảnh thôi, nhà thơ đã khiến người đọc thấy được trận “đại hồng thủy” thật khủng khiếp.
Người xưa từng nói: “Thủy – Hỏa – Đạo – Tặc” (“Thủy” là lũ lụt, “Hỏa” là cháy, “Đạo” là trộm cắp, “Tặc” là cướp bóc – đây là bốn mối họa lớn, nguy hiểm, khó lường, đồng thời cũng là thứ tự của các mối họa). Vì vậy, chỉ cần vài hình ảnh thơ rất sinh động kia của Nguyễn Duy cũng đủ đem đến cho người đọc cảm giác ám ảnh về sức mạnh tàn phá khủng khiếp của lũ lụt.
Đáng chú ý, phía trước những hình ảnh ấy, Nguyễn Duy cho đi kèm một phó từ “lại” và lặp đi lặp lại bốn lần để diễn tả sự tái diễn, nối tiếp của một việc không mong đợi. Nghệ thuật điệp từ ấy không chỉ thể hiện nỗi khổ cực của người dân quê trong hiện tại mà còn gợi lại những vất vả từ quá khứ.
Các từ láy “tỏng tòng tong”, “lóp ngóp” không chỉ gợi hình ảnh cảnh vật của “quê ta”, “làng ta” mà còn cho thấy nỗi đau đớn, xót xa của “lòng ta”. Dù ở phương trời xa, nhà thơ vẫn như nghe thấy tiếng ếch nhái quê nhà râm ran; âm thanh ấy càng kêu vang bao nhiêu thì cõi lòng thi nhân càng “hoang cả” bấy nhiêu. Và cái nỗi niềm cố hương như thế được thể hiện đầy đủ nhất trong khổ thơ thứ hai:
“Bà con mấy bữa nhiều không?
Những ai bị gậy phiêu bồng chân mây?
Bóng ai loẻo khoẻo hình cây?
Căm căm gió bấc thế này… làm sao?...”
Trong hoàn cảnh phải “màn trời chiếu đất” của thiên tai bão lụt, điều con người quan tâm nhất là sự sống – “ăn” để không bị chết đói và “mặc” để không bị chết rét. Nỗi niềm về cố hương của Nguyễn Duy cũng không nằm ngoài hai điều ấy. Tuy nhiên, qua khổ thơ, qua những tâm trạng đau đáu, lo lắng về quê nhà, ta thấy Nguyễn Duy không chỉ quan tâm đến miếng ăn, manh áo trước mắt mà còn lo cho phận người sau bão lũ – những người phải chịu cảnh “quê ta lại tỏng tòng tong mùa màng”.
Nỗi lo ấy được thể hiện qua hàng loạt câu hỏi tu từ và dấu chấm lửng. Ông lo bà con quê nhà có được ăn đủ bữa không, bữa ăn có no không: “Bà con mấy bữa nhiều không?”. Ông xót xa khi nghĩ đến những phận người bất hạnh phải tha phương cầu thực: “Những ai bị gậy phiêu bồng chân mây?” – đi ăn xin, ăn mày. Với những phận người ấy, Nguyễn Duy không khỏi lo lắng: “Loẻo khoẻo hình cây” (đói ăn), “Căm căm gió bấc thế này… làm sao?...” (thiếu mặc).
Vậy đấy, “cái ăn” và “cái mặc” của bà con quê hương cứ đeo bám, ám ảnh nhà thơ đến khôn cùng. Đọc khổ thơ này, ta thấy tấm lòng của Nguyễn Duy thật nhân hậu. Nó khiến ta chợt nhớ đến câu thơ ông từng viết rất chân tình:
“Tôi trót sinh ra nơi làng quê nghèo
Quen cái thói hay nói về gian khổ
Dễ chạnh lòng trước cảnh thương tâm...”
(Đánh thức tiềm lực)
Có thể nói, cái nỗi niềm ấy khiến ta thấy phảng phất đâu đó tấm lòng của Nguyễn Du hay Đỗ Phủ.
Sức mạnh hủy diệt của thiên tai, lũ lụt với con người quả là rất kinh khủng. Nhưng với niềm tin mãnh liệt “còn da lông mọc, còn chồi nảy cây”, dân tộc này luôn hướng về tương lai với những điều tốt đẹp sẽ đến. Bởi vậy, khổ cuối của bài thơ khép lại bằng niềm tin vào mùa xuân tươi mới, với lời chúc tốt lành và sự cầu mong tổ tiên độ trì:
“Bạn ơi dù có thế nào
Giữ cho nhau sắc hoa đào ngàn năm
Tốt lành lời chúc sang xuân
Nén nhang bái tổ khấn thầm… dân ơi!...”
Cho nên, bài thơ tuy có hơi buồn nhưng không bi lụy, không tuyệt vọng. Nó gieo vào lòng người niềm tin vào ngày mai, hướng đến những điều tốt đẹp.
Bài thơ “Dân ơi” ra đời đã gần ba mươi năm, nhưng tính thời sự của thi phẩm chưa hề vơi cạn. Nó không chỉ cho thấy sự tàn phá ghê gớm của thiên tai, mà còn phản ánh chân thực cuộc sống khổ cực của người dân sau mưa bão. Tuy nhiên, bài thơ không khiến người đọc bi quan. Trái lại, nó sưởi ấm lòng người trong bão lụt bằng tình người chan chứa, qua những mối quan tâm, lo lắng, ưu tư cho quê nhà, cho phận người.
Vì thế, “Dân ơi” đã gieo vào lòng người đọc niềm tin rằng “ngày mai trời lại sáng”, niềm tin vào tình quê trong sáng, tình người tha thiết.