Đàn bò sữa sụt giảm mạnh, người chăn nuôi chịu nhiều áp lực
Đàn bò sữa Việt Nam đang sụt giảm nghiêm trọng, người chăn nuôi chịu nhiều áp lực từ chi phí tăng cao đến giá thu mua bấp bênh. Các chuyên gia cho rằng giải pháp then chốt là xây dựng chuỗi liên kết chặt chẽ giữa nông dân, doanh nghiệp và Nhà nước, hướng tới phát triển bền vững ngành sữa trong nước.
Thông tin tại tọa đàm “Thực trạng và giải pháp khôi phục sự phát triển đàn bò sữa” tổ chức ngày 23/9 tại Hà Nội cho thấy, những năm 2010 - 2015 từng là giai đoạn sôi động của ngành. Đàn bò sữa tăng trưởng tới 15%/năm, nhiều địa phương như Mộc Châu, Ba Vì, Vĩnh Tường, Củ Chi… trở thành “thủ phủ bò sữa”, mang lại sự thịnh vượng cho hàng nghìn hộ nông dân.
Tuy nhiên hiện nay, bức tranh ngành bò sữa thay đổi rõ rệt với nhiều “gam trầm”. Tốc độ tăng trưởng đàn chỉ còn 0,4%/năm; một số địa phương ghi nhận mức sụt giảm sâu, riêng TP. Hồ Chí Minh mất tới hơn 50% tổng đàn. Điều này không chỉ đe dọa mục tiêu phát triển ngành công nghiệp sữa, mà còn đặt sinh kế của hàng chục nghìn hộ chăn nuôi trước thách thức nghiêm trọng.

Tại tọa đàm “Thực trạng và giải pháp khôi phục sự phát triển đàn bò sữa”, các đại biểu cho rằng bức tranh ngành bò sữa thay đổi rõ rệt với nhiều “gam trầm”
Ông Lê Việt Hải, Phó Chi cục Chăn nuôi và Thú y TP. Hồ Chí Minh, phân tích: ngành bò sữa vốn đòi hỏi đầu tư lớn, trong khi diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, chi phí sản xuất tăng cao. Doanh nghiệp lại có xu hướng nhập khẩu sữa bột hoàn nguyên giá rẻ, khiến nông dân thêm bất lợi.
Phương thức chăn nuôi hiện vẫn chủ yếu truyền thống, thiếu áp dụng kỹ thuật phối trộn dinh dưỡng hiện đại, dẫn đến năng suất thấp, bò dễ bị stress nhiệt. Giá thu mua sữa tươi nguyên liệu gần như đứng yên (Vinamilk chỉ tăng 0,1%, Friesland Campina thậm chí giảm 0,1%), khiến nhiều hộ chăn nuôi nhỏ lẻ không còn lợi nhuận.
TS. Lương Anh Dũng, Ủy viên Ban Thường vụ Hiệp hội Chăn nuôi Gia súc lớn Việt Nam phân tích, với hơn 100 triệu dân, đàn bò sữa cả nước chỉ khoảng 330.000 con, mới đáp ứng 40% nhu cầu sữa tươi. Khoảng 60% còn lại vẫn phải nhập khẩu. Giá thức ăn tăng cao trong khi giá thu mua không đổi khiến hơn 130.000 hộ chăn nuôi vừa và nhỏ không có lãi, nhiều hộ buộc phải phá đàn, bỏ nghề.
Theo Trung tâm Nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì (Viện Chăn nuôi), ngành chăn nuôi bò sữa trong nước đang đối mặt với nhiều khó khăn nội tại. Chất lượng giống và năng suất giảm khi nhiều hộ chưa tiếp cận được tinh bò sữa cao sản, dẫn tới đàn bò suy yếu qua các thế hệ. Nguồn thức ăn thiếu ổn định do diện tích trồng cỏ hạn chế, phụ thuộc nhiều vào thức ăn tinh mua ngoài với chi phí cao. Phần lớn hộ chăn nuôi dựa vào kinh nghiệm, ít áp dụng kỹ thuật tiên tiến, quy trình VietGAHP; nguồn thức ăn thô xanh còn đơn điệu, chủ yếu là cỏ voi, ít sử dụng ủ chua hay phối trộn TMR.
Bên cạnh đó, thiếu vốn và tín dụng ưu đãi khiến nông hộ khó cải thiện chuồng trại, đầu tư máy móc và con giống. Thị trường tiêu thụ lại bấp bênh, giá thu mua phụ thuộc vào doanh nghiệp, thiếu cơ chế bình ổn, rủi ro kinh tế cao. Công tác thú y, vệ sinh an toàn thực phẩm chưa đồng bộ, nhiều hộ chưa được tập huấn đầy đủ, dẫn tới nguy cơ dịch bệnh và chất lượng sữa không ổn định. Biến đổi khí hậu, nắng nóng gay gắt và dịch bệnh mới nổi càng làm gia tăng rủi ro cho ngành bò sữa.
Bên cạnh đó, một loạt yếu tố bên ngoài cũng đang tạo sức ép lên ngành bò sữa trong nước. Lượng sữa nguyên liệu và thành phẩm nhập khẩu vào Việt Nam liên tục tăng, bình quân 8 -12%/năm, có năm lên tới 20%. Bên cạnh đó, sự phát triển quá nóng của thị trường sữa khiến sản phẩm kém chất lượng tràn lan, gây “nhiễu loạn” và tạo áp lực không nhỏ lên các dòng sản phẩm đạt chuẩn.

Ông Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam, nhấn mạnh cần sớm hình thành chuỗi liên kết bền vững, trong đó doanh nghiệp giữ vai trò “đầu tàu”
Trước thực trạng này, ông Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam, nhấn mạnh cần sớm hình thành chuỗi liên kết bền vững, trong đó doanh nghiệp giữ vai trò “đầu tàu”, đảm bảo vốn, công nghệ và bao tiêu sản phẩm. Nông dân tham gia hợp tác xã, áp dụng kỹ thuật tiên tiến để cung ứng sữa đạt chuẩn. Nhà nước ban hành chính sách khuyến khích, đặc biệt là quy định các cơ sở chế biến, kinh doanh sữa phải sử dụng tối thiểu 5–10% sữa tươi nội địa trong tổng nguyên liệu, giống như thông lệ nhiều quốc gia.
“Chỉ khi xây dựng được chuỗi liên kết minh bạch, khép kín, ngành bò sữa mới có thể khắc phục khó khăn, giảm phụ thuộc nhập khẩu, đồng thời bảo vệ quyền lợi chính đáng của người chăn nuôi”, ông Dương nói.
Theo các chuyên gia, ngoài chính sách hỗ trợ vốn và quy hoạch vùng chăn nuôi tập trung, Việt Nam cần tập trung nâng cao chất lượng giống, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao và chuyển đổi số trong quản lý đàn bò. Đồng thời, việc triển khai chương trình sữa học đường với 100% sữa tươi nội địa sẽ vừa cải thiện thể trạng trẻ em, vừa mở rộng thị trường tiêu thụ cho nông dân.
Nếu thực hiện đồng bộ các giải pháp, ngành bò sữa không chỉ đảm bảo an ninh dinh dưỡng quốc gia mà còn có thể xây dựng thương hiệu “Sữa tươi Việt Nam” đạt chuẩn chất lượng và an toàn thực phẩm, đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.