Đại học vùng đứng trước thử thách: Giữ vai trò, tăng quyền tự chủ

Giảm đầu mối, xóa khâu trung gian, tăng phân quyền - tinh thần Nghị quyết 71-NQ/TW đặt ra yêu cầu sắp xếp lại mô hình đại học vùng. Tại Quốc hội, nhiều đại biểu chỉ ra bất cập kéo dài, đồng thời đề xuất phương án tái cấu trúc để mô hình phát huy vai trò 'đầu tàu' phát triển giáo dục và nhân lực vùng miền.

Rà soát để tinh gọn, giảm chồng chéo

Hiện cả nước có 3 đại học vùng gồm Đại học Huế, Đại học Thái Nguyên và Đại học Đà Nẵng. Thực tế, đại học vùng được kỳ vọng là “đầu tàu” đào tạo nhân lực, nghiên cứu khoa học, dẫn dắt phát triển kinh tế – xã hội ở các khu vực còn khó khăn. Tuy nhiên, sau nhiều năm vận hành, mô hình này đang bộc lộ không ít điểm nghẽn, đặc biệt là sự chồng chéo trong quản lý và hạn chế quyền tự chủ của các trường thành viên.

Tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, cùng với nhiều nội dung lớn của dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi), mô hình đại học vùng tiếp tục trở thành vấn đề được nhiều đại biểu Quốc hội thảo luận thẳng thắn. Dù mô hình này vẫn được giữ lại trong luật vừa được Quốc hội thông qua, song hàng loạt ý kiến đã chỉ ra những bất cập tồn tại kéo dài, đặt ra yêu cầu phải rà soát, sắp xếp lại theo tinh thần đổi mới quản trị giáo dục đại học và tinh gọn bộ máy.

Đại học vùng đang bộc lộ không ít điểm nghẽn, đặc biệt là sự chồng chéo trong quản lý và hạn chế quyền tự chủ của các trường thành viên

Đại học vùng đang bộc lộ không ít điểm nghẽn, đặc biệt là sự chồng chéo trong quản lý và hạn chế quyền tự chủ của các trường thành viên

Đại biểu Lê Thị Thanh Lam (ĐBQH TP. Cần Thơ) thẳng thắn cho rằng, thực tế, mô hình này đang trở thành một cấp trung gian giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo với các trường thành viên: vừa làm chủ quản, vừa là đơn vị sự nghiệp. Điều này dẫn tới hệ quả là cơ chế trách nhiệm bị phân tán, quyền tự chủ của các trường thành viên bị thu hẹp, trong khi hiệu quả điều phối chiến lược chưa tương xứng.

“Cách tổ chức này không phù hợp với tinh thần của Nghị quyết số 71-NQ/TW, trong đó nhấn mạnh yêu cầu giảm đầu mối, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền và xóa bỏ các khâu trung gian không cần thiết để bảo đảm quản trị thống nhất, hiệu quả”, đại biểu Lê Thị Thanh Lam nhấn mạnh.

Cùng chung mối băn khoăn, đại biểu Nguyễn Văn Thi (ĐBQH tỉnh Bắc Ninh) cho rằng, thương hiệu đại học vùng hiện chưa được nhận diện rõ ràng. Ở nhiều ngành, xã hội và người học chỉ biết đến tên các trường thành viên, trong khi “tên” đại học vùng lại khá mờ nhạt. Điều này làm hạn chế năng lực cạnh tranh, ảnh hưởng tới xếp hạng, hợp tác quốc tế và khả năng thu hút nguồn lực. Theo đại biểu Nguyễn Văn Thi, những tồn tại của mô hình đại học vùng không phải là vấn đề mới mà đã kéo dài nhiều năm. Vì vậy, đã đến lúc cần có đánh giá toàn diện về vị trí, vai trò và hiệu quả hoạt động của mô hình này, từ đó có phương án chuyển đổi phù hợp.

Cùng chung quan điểm về những bất cập của đại học vùng, bên ngoài nghị trường, TS. Lê Viết Khuyến, Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam, nhìn nhận thẳng thắn rằng các đại học vùng đến nay chưa thực sự mạnh như kỳ vọng, song ông cho rằng không nên phủ định mô hình này.

Theo TS. Khuyến, đại học vùng được hình thành chủ yếu ở các khu vực kinh tế – xã hội còn khó khăn, với sứ mệnh đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ, phục vụ phát triển vùng. Các đại học vùng được xây dựng theo hướng đa lĩnh vực, trên cơ sở sáp nhập các trường đơn ngành – đây cũng là xu thế chung của thế giới và phù hợp với tinh thần Nghị quyết 71-NQ/TW.

Cắt giảm khâu trung gian, nâng hiệu quả quản trị

Ở chiều ngược lại, nhiều chuyên gia giáo dục cho rằng, vấn đề không nằm ở việc “có hay không” đại học vùng, mà là tổ chức và quản trị mô hình này như thế nào để phát huy đúng vai trò, sứ mệnh.

Nguyên Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Bùi Văn Ga cho rằng, để đại học vùng phát huy tối đa tiềm năng, cần có chính sách hỗ trợ mạnh mẽ và rõ ràng hơn từ Chính phủ và Bộ GD&ĐT. Trước hết, phải giao quyền tự chủ thực chất cho đại học vùng và các trường thành viên trên tất cả các phương diện: tổ chức bộ máy, nhân sự, mở ngành đào tạo, quản lý tài chính và hợp tác quốc tế.

“Tự chủ là chìa khóa để các đại học thích ứng nhanh với thị trường lao động và xu hướng phát triển khoa học – công nghệ”, ông Ga nhấn mạnh. Đồng thời, trong bối cảnh tổ chức Hội đồng trường có nhiều thay đổi, cần có cơ chế bảo đảm tính liên tục trong quản trị và hoạch định chiến lược phát triển đại học vùng.

Các đại học vùng sẽ tập hợp nguồn lực, thúc đẩy liên kết vùng, hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội và góp phần thực hiện chiến lược phát triển quốc gia

Các đại học vùng sẽ tập hợp nguồn lực, thúc đẩy liên kết vùng, hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội và góp phần thực hiện chiến lược phát triển quốc gia

Tuy nhiên, để mô hình này hoạt động hiệu quả, TS. Khuyến cho rằng cần giải quyết dứt điểm tư duy cục bộ, lợi ích riêng lẻ giữa các trường thành viên. Bộ GD&ĐT cần quyết liệt hơn trong việc phân cấp, phân quyền, đồng thời sớm ban hành Nghị định riêng cho đại học quốc gia và đại học vùng, trong đó làm rõ sứ mệnh, cơ cấu tổ chức, mức độ tự chủ và cơ chế phối hợp nội bộ.

Ông cũng kiến nghị, do đại học vùng chủ yếu đặt tại các khu vực chậm phát triển, Nhà nước cần ưu tiên đầu tư ngân sách, hạn chế áp dụng cứng nhắc cơ chế tự chủ tài chính theo Nghị định 60, và gắn chiến lược phát triển đại học vùng với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng.

Thực tế, trong Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) vừa được Quốc hội thông qua, mô hình đại học vùng vẫn được giữ lại, song định hướng rõ hơn vào nâng cao hiệu quả quản trị bên trong. Luật sửa đổi lần này làm rõ hơn chức năng điều phối chiến lược của đại học vùng, đồng thời tăng quyền tự chủ học thuật, tổ chức và tài chính cho các trường thành viên; hoàn thiện cơ chế phân cấp, phân quyền, giải trình và trách nhiệm của từng cấp quản lý.

Chính phủ đã chỉ đạo Bộ GD&ĐT rà soát toàn diện mô hình tổ chức của các đại học vùng, đánh giá mức độ phân quyền, phân cấp và các khâu trung gian, từ đó đề xuất phương án tinh gọn, nâng hiệu quả quản trị và hạn chế chồng chéo.

Đại học vùng sẽ là cơ sở giáo dục đại học thuộc hệ thống quốc dân, có tư cách pháp nhân, tổ chức theo Luật Giáo dục đại học và các quy định liên quan. Mô hình này bao gồm ban chức năng, trường thành viên, viện nghiên cứu, khoa, bộ môn, thực hiện đào tạo đa lĩnh vực ở tất cả các trình độ, đồng thời nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo và phục vụ xã hội.

Các đại học vùng còn tập hợp nguồn lực, thúc đẩy liên kết vùng, hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội và góp phần thực hiện chiến lược phát triển quốc gia. Trường thành viên của đại học vùng hoạt động theo quy chế tổ chức và quy định pháp luật liên quan.

Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn thừa nhận, thực tế, mô hình này vẫn tồn tại những hạn chế, khi nhiều cơ sở thành viên còn phân tán, quản lý bên trong lỏng lẻo, đi ngược yêu cầu giảm đầu mối và khâu trung gian. Bộ trưởng nhấn mạnh cần tiến hành khảo sát, đánh giá kỹ lưỡng để nhận diện rõ những điểm trung gian cần khắc phục, từ đó có giải pháp tinh gọn, nâng hiệu quả quản trị và phát huy tối đa vai trò “đầu tàu” của đại học vùng. Cơ quan soạn thảo sẽ tiếp tục xem xét, nghiên cứu để đảm bảo các đề xuất cải cách phù hợp với thực tiễn và tinh thần Nghị quyết 71-NQ/TW.

Có thể thấy, đại học vùng vẫn giữ vai trò quan trọng trong việc đào tạo nhân lực, nghiên cứu khoa học và phát triển vùng miền. Tuy nhiên, để thực sự trở thành “đầu tàu” dẫn dắt, mô hình này cần những bước chuyển tinh gọn, giảm chồng chéo, tăng quyền tự chủ cho các trường thành viên. Việc thay đổi này để khai thông tiềm năng, giúp các đại học vùng phát triển bền vững và trị và phát huy tối đa vai trò “đầu tàu” của đại học vùng.

Thu Hằng/VOV.VN

Nguồn VOV: https://vov.vn/xa-hoi/dai-hoc-vung-dung-truoc-thu-thach-giu-vai-tro-tang-quyen-tu-chu-post1254028.vov