Đại danh tướng Trần Hưng Đạo - một nhân cách lớn
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là nhà quân sự tài giỏi cùng với quân - dân nhà Trần 3 lần đại thắng quân Mông - Nguyên. Tháng 2-1984, Trần Hưng Đạo được Hội đồng Khoa học Hoàng gia Anh vinh danh là một trong 10 vị tướng vĩ đại nhất thế giới.

Trên hết, trong lòng nhân dân, Hưng Đạo Vương là một đại danh tướng, một nhân cách lớn, một đức thánh.
3 lần đại thắng quân Mông - Nguyên
Theo Đại Việt sử ký toàn thư: “Tháng 9 (năm 1257 - người viết) xuống chiếu cho tả hữu tướng quân đem quân thủy bộ ra ngăn giữ biên giới theo sự tiết chế của Quốc Tuấn”(1) khi được báo tin quân Mông - Nguyên sắp đánh nước ta lần thứ nhất (“Tháng 12, tướng nhà Nguyên là Ngột Lương Hợp Đài xâm lấn đồng Bình Lệ”). Điều này cho thấy Hưng Đạo Vương đã tham gia trận đầu tiên chống giặc Mông - Nguyên, mặc dù “vua và thái tử ngự thuyền lầu tiến đến bến Đông đón đánh, phá được quân giặc”.
Khi quân Mông - Nguyên trở lại xâm chiếm nước ta lần thứ 2, ta thất bại ở Kha Li và Ngọc Châu rút về ải Chi Lăng rồi Vạn Kiếp, vua Trần Nhân Tông lo ngại bàn với Trần Quốc Tuấn: “Nên chịu hàng để cứu muôn dân”. Trần Quốc Tuấn trả lời: “Bệ hạ chém đầu tôi trước rồi hãy hàng giặc”. Tháng 10 năm Quý Mùi (1283), “Vua Nhân Tông cất Hưng Đạo Vương làm Quốc công thống lĩnh hết thảy thủy và bộ binh gồm có 20 vạn ra phá giặc” (2).
Đầu năm Ất Dậu (1285), Hưng Đạo Vương phản công. Quân ta thắng. Trận Chương Dương Độ mở đường cho quân ta tiến về Thăng Long... Thoát Hoan chạy về nước. Trong vòng 6 tháng (tháng Chạp năm Giáp Thân 1284 đến tháng 6 năm Ất Dậu 1285) quân ta dưới quyền chỉ huy của Hưng Đạo Vương đánh đuổi 50 vạn quân Mông Cổ ra ngoài bờ cõi(3).
Mùa xuân tháng 2 năm Đinh Hợi (1287), Thoát Hoan đem quân sang đánh báo thù. Ban đầu, quân Mông - Nguyên thắng, quân ta lui về Vạn Kiếp rồi rút về Thăng Long. Thoát Hoan tấn công Thăng Long thất bại, kéo về Vạn Kiếp, lương thực bị ta lấy cả. Quân ta phản công ở Bạch Đằng Giang, Hưng Đạo Vương trỏ sông Hóa Giang mà thề: “Trận này không phá xong giặc Nguyên thì không về đến sông này nữa”. Quân ta toàn thắng. Thoát Hoan cùng tướng lĩnh chạy về nước(4).
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn để lại nhiều tác phẩm giá trị về nghệ thuật quân sự như: Dụ chư tỳ tướng hịch văn (hay thường gọi là Hịch tướng sĩ), Binh thư yếu lược, Vạn Kiếp tông bí truyền thư...
Nhân cách lớn
Theo truyện kể, lúc sắp mất, Trần Liễu (cha Trần Quốc Tuấn) cầm tay Quốc Tuấn, trăng trối: “Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được”(5). Quốc Tuấn ghi để trong lòng, nhưng không cho là phải. Dù cha ông có hiềm khích lớn với nhà Trần Thái Tông, Trần Hưng Đạo luôn đặt việc nước lên trên, một lòng trung thành, hết lòng phò tá các vua Trần đánh ngoại xâm cứu nước.
Trần Quốc Tuấn và Trần Quang Khải có chứa đựng hiềm khích do đời trước, nên giữa 2 người có vẻ vẫn tiềm tàng hiềm nghi, nhưng Trần Quốc Tuấn chủ động tắm cho Trần Quang Khải, từ đó 2 ông thân thiết, tin tưởng, tình nghĩa ngày càng thêm mặn mà(6). Có thể nói, Trần Quốc Tuấn đã gạt bỏ tình riêng, gác mọi hiềm khích để tạo nên mối đoàn kết, đồng tâm hiệp lực đánh đuổi giặc ngoại xâm.
Ngoài là người có tài dụng người, dụng binh thao lược, Hưng Đạo Vương còn tiến cử người tài giỏi giúp nước như: Dã Tượng, Yết Kiêu (thân phận là gia nô, nô lệ)(7)
là gia thần của ông đã có công đánh dẹp Ô Mã Nhi, Toa Đô. Các người nổi tiếng khác như: Phạm Ngũ Lão (xuất thân là nông dân)(8),
Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực vốn là môn khách của ông, đều nổi tiếng về văn chương và chính sự, bởi vì ông có tài mưu lược, anh hùng, lại một lòng giữ gìn người trung nghĩa nên đã giữ được những nhân tài chung quanh ông…
Thượng Đẳng thần - Đức thánh Trần Hưng Đạo
Khi “thiên hạ vô sự, bốn phương thái bình, kế được mùa luôn mấy năm, trăm họ vui vẻ. Thượng hoàng nghĩ đến công đức Hưng Đạo đại vương, sai quan về nơi dinh cũ của ngài ở Vạn Kiếp, sửa sang một tòa sinh từ thực là tráng lệ, để thờ sống Hưng Đạo đại vương. Thượng hoàng lại thân soạn ra một bài văn bia, kể công trạng của ngài, so sánh ngài với Thái công Thượng phụ nhà Chu khi xưa, tứ thời bát tiết, sai quan đem lễ về tận nơi sinh từ tế bái”(9).
Sau khi ông mất, dân gian đã suy tôn ông thành Đức Thánh Trần (hay còn gọi là Cửu Thiên Đế). Từ khi lập đền ở Vạn Kiếp, 2 xã Vạn An, Dược Sơn ngày đêm đèn hương phụng sự.

Đền thờ Đại danh tướng Trần Hưng Đạo tại xã Long Thành.
Tại Đồng Nai, có đền thờ Trần Hưng Đạo tại xã Bình Sơn, huyện Long Thành (cũ), nay là xã Long Thành và tại phường Tân Tiến, thành phố Biên Hòa (cũ), nay là phường Tam Hiệp.
Buổi đầu rời quê hương miền Bắc vào đất Bình Sơn làm phu cao su, những người nông dân nghèo khổ không có của cải gì đáng giá ngoài vài bộ quần áo và một số đồ dùng sinh hoạt. Tuy nhiên, với quan niệm tín ngưỡng sẽ được ông bà, tổ tiên và các vị thần thánh nơi cố hương phù trợ cho mình ở vùng đất mới nên họ đã mang theo bản sao Sắc thần của vua Tự Đức phong cho Thượng đẳng thần Trần Hưng Đạo ở đền Bảo Lộc (Nam Hà) vào nơi ở mới Bình Sơn.
Cuối năm 1926, dân phu Bình Sơn đã đệ đơn (kèm theo bản sao chép Sắc thần đem từ quê hương vào) lên chủ đồn điền xin dựng một ngôi đền để thờ Trần Hưng Đạo. Trước nguyện vọng chính đáng của người phu cao su, người Pháp đã phải đồng ý cho họ dựng một ngôi đền nhỏ bằng tranh, tre ở nơi cư trú và hằng năm vào ngày 18 đến 20-8 âm lịch, lễ giỗ Trần Hưng Đạo được tổ chức rất long trọng theo nghi thức thờ thần truyền thống của dân tộc.
Qua một thời gian, ngôi đền đã bị xuống cấp. Những năm 1930, năm 1939, năm 1997, Ban Trị sự đền và những người phu cao su, người dân Bình Sơn đã đóng góp công của trùng tu, sửa chữa lại ngôi đền. Năm 1998, Ban Trị sự đền và nhân dân Bình Sơn đã xây Nhà bia tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ của xã Bình Sơn hy sinh trong 2 cuộc kháng chiến trong khuôn viên đền. Từ đó đến nay, ngôi đền luôn được nhân dân Bình Sơn trùng tu, tôn tạo, chăm sóc, bảo vệ và giữ gìn ngày càng khang trang, sạch đẹp.
Tại phường Tân Tiến, thành phố Biên Hòa cũ, nay là phường Tam Hiệp, Đền thờ Hưng Đạo Vương được Hội Tập Thiện xây dựng từ năm 1954. Trưởng hội là ông Nguyễn Xuân Diêu. Nguyên thủy của đền là nhà chánh điện tường ván, mái lợp tôn. Đến năm 1960, Hội Tập Thiện đã trùng tu, sửa chữa đền thờ bằng nguồn vốn tự có của mình, xây dựng lại nhà chánh điện, nới rộng thành 3 gian; tường xây, cột chèo gỗ, mái lợp tôn; xây thêm 3 gian nhà bếp phía sau, sửa soạn màn lễ và thờ các chư vị, tiên sinh có công sáng lập ra đền.
Nguyễn Sơn Hùng
(1) Đại Việt sử ký toàn thư, Cao Huy Giu dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, NXB Hồng Đức, 2025, trang 353-355.
(2) Tri tân nhân vật chí tập chú, Nguyễn Phúc An, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2023, trang 259/ Cũng tại sách này, ở trang 263 cho rằng, Thái Thượng Hoàng vờ hỏi Hưng Đạo Vương về hàng giặc.
(3) Tri tân nhân vật chí tập chú (sách đã dẫn, trang 260).
(4) Tri tân nhân vật chí tập chú (sách đã dẫn, trang 261).
(5) Năm Đinh Dậu (1237), Thái sư Trần Thủ Độ ép Trần Liễu (cha Trần Hưng Đạo) phải nhường vợ là Thuận Thiên công chúa (chị của Lý Chiêu Hoàng) cho em ruột là vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh) dù bà này đã có thai với Trần Liễu được 3 tháng, đồng giáng Lý Chiêu Hoàng (đang là Hoàng hậu) xuống làm công chúa. Phẫn uất, Trần Liễu họp quân làm loạn. Trần Thái Tông chán nản bỏ đi lên Yên Tử. Sau Trần Liễu biết không làm gì được phải đóng giả làm người đánh cá trốn lên thuyền vua Trần Thái Tông xin tha tội. Trần Thủ Độ biết được, cầm gươm đến định giết Trần Liễu nhưng Thái Tông lấy thân mình che cho Trần Liễu. Trần Liễu được tha tội nhưng quân lính theo ông đều bị giết.
(6) Nguyễn Thanh Điệp, 28-8-2024, Giáo dục và Thời đại.
(7) Yết Kiêu về sau được phong tặng làm Tĩnh mục hiển minh chiêu ứng đại vương, làm thành hoàng làng Hạ Bì - Hải Dương, sách Hưng Đạo Vương (Phan Kế Bính, Lê Văn Phúc, trang 204, sdđ).
(8) Về sau, Phạm Ngũ Lão được cử sang đánh Ai Lao, Chiêm Thành, có công lớn được phong làm Tiền Thượng tướng quân. Sau khi mất, làng Phù Ứng lập miếu thờ làm phúc thần (Phan Kế Bính, Lê Văn Phúc, trang 204, sdđ).
(9) Phan Kế Bính, Lê Văn Phúc, trang 191, sdđ.