Đại biểu Quốc hội: miền núi không cần chạy đua sản xuất hàng hóa lớn mà phải tạo sản phẩm có dấu ấn riêng
Sáng 5/12, Quốc hội đã thảo luận ở hội trường về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đến năm 2035.
Các đại biểu nhất trí với việc hợp nhất 3 Chương trình mục tiêu quốc gia trước đây thành một Chương trình. Điều này sẽ khắc phục được sự phân tán nguồn lực, chồng chéo chính sách và nhiều đầu mối.

Đại biểu tham dự phiên thảo luận sáng 5/12. Ảnh: Quochoi.vn
Chỉ tiêu 80% số hộ nông dân người dân tộc thiểu số làm kinh tế nông, lâm nghiệp hàng hóa không sát
Tham gia thảo luận, đại biểu Quốc hội Phạm Văn Hòa (Đoàn tỉnh Đồng Tháp) đề nghị tách riêng đối tượng hộ nghèo, cận nghèo và bảo trợ xã hội; đánh giá kỹ mục tiêu giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi xuống còn 10% đến năm 2030 vì tỉ lệ này hiện là 24%, thời gian chỉ còn 4 - 5 năm để thực hiện, rất khó đạt được.
Đặc biệt thảo luận sâu về chỉ tiêu có 40% lao động trở lên là người dân tộc thiểu số biết làm ngành các ngành nghề công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ du lịch; phấn đấu 80% số hộ nông dân người dân tộc thiểu số làm kinh tế nông, lâm nghiệp hàng hóa, đại biểu Phạm Văn Hòa dẫn phân tích của chuyên gia đầu ngành của ngành nông nghiệp với sản xuất hàng hóa ở ở miền núi. Theo đó, miền núi có đặc thù là không có cánh đồng rộng bát ngát, thẳng cánh cò bay, địa hình dốc... nên "nếu cứ cố chen chân vào cuộc đua làm thật nhiều, miền núi luôn ở vạch xuất phát thấp hơn".

Đại biểu Quốc hội Phạm Văn Hòa (Đoàn tỉnh Đồng Tháp). Ảnh: Quochoi.vn
Miền núi cần tận dụng những điều kiện tự nhiên với cách làm chậm rãi, sát hơn, bám chắc dân tộc hơn chứ không cần chạy theo đồng bằng làm cánh đồng lớn, sản xuất hàng hóa quy mô lớn. Nông sản miền núi không chỉ là hàng hóa mà là văn hóa, là dấu ấn của một cộng đồng của bà con dân tộc... Các mặt hàng nông sản của bà con chỉ là vài ba con gà, con lợn được cắp nách xuống chợ chứ không phải những container... Vì vậy, đại biểu đề nghị định nghĩa rõ ràng về hàng hóa, xem lại chỉ tiêu 80% số hộ nông dân người dân tộc thiểu số làm kinh tế nông nông lâm nghiệp hàng hóa vì không sát thực tiễn.
Đề nghị phân bổ vốn cho địa phương theo hiệu quả giải ngân
Đại biểu Quốc hội Đỗ Văn Yên (Đoàn TP Hồ Chí Minh) quan tâm đến tổng mức bố trí ngân sách Nhà nước và cơ cấu phân cấp vốn giữa Trung ương và địa phương, đại biểu Đoàn TP Hồ Chí Minh đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc bổ sung cơ chế “bảo toàn vốn đầu tư phát triển cho hạ tầng thiết yếu” đối với các địa phương có tỷ lệ hộ nghèo cao và ngân sách còn khó khăn để bảo đảm tính nhất quán trong thực thi và nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách.

Đại biểu Quốc hội Đỗ Văn Yên (Đoàn TP Hồ Chí Minh). Ảnh: Quochoi.vn
Đối với nguyên tắc phân bổ vốn ngân sách Trung ương, đánh giá nguyên tắc ưu tiên vùng đặc biệt khó khăn và vùng dân tộc thiểu số, đại biểu đề nghị bổ sung tiêu chí phân bổ theo “mức độ hoàn thành mục tiêu và hiệu quả giải ngân giai đoạn trước” để tạo động lực mạnh mẽ đối với các địa phương trong công tác điều hành; giảm tình trạng vốn chậm giải ngân hoặc đầu tư dàn trải, từ đó thúc đẩy tiến độ và nâng cao hiệu quả chương trình.
Về nội dung bố trí vốn cho thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2026 - 2030 là 500.000 tỷ đồng, trong đó vốn Trung ương chiếm 20%, vốn địa phương chiếm 80% với 400.000 tỷ đồng, đại biểu Quốc hội Mai Văn Hải (Đoàn tỉnh Thanh Hóa) cho rằng: trong điều kiện sáp nhập tỉnh, thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, quy mô tỉnh, quy mô các xã đều lớn hơn nhiều so với trước đây, nhu cầu vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng và việc hoàn thiện các tiêu chí nông thôn mới sau sắp xếp rất lớn... Nay nguồn vốn không được như giai đoạn trước, địa phương chỉ được hưởng 80 - 85% tiền sử dụng đất nên càng khó khăn vốn đối ứng cho thực hiện chương trình.

Đại biểu Quốc hội Mai Văn Hải (Đoàn tỉnh Thanh Hóa). Ảnh: Quochoi.vn
Vì vậy đại biểu đề nghị tăng cân đối ngân sách Trung ương và có các giải pháp để huy động các nguồn vốn hợp pháp khác như: nguồn vốn của doanh nghiệp, hợp tác xã, vốn của người dân trong thực hiện Chương trình mục tiêu. Trong đó cần tăng vốn ngân sách Trung ương cho hợp phần phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Hoàn thiện hàng lang pháp lý về bảo hiểm nông nghiệp
Đánh giá cao hướng tiếp cận của chương trình khi đổi mới tư duy trong thực hiện các biện pháp về giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số phải gắn với bối cảnh là biến đổi khí hậu diễn biến ngày càng phức tạp, khó lường, tuy nhiên đại biểu Quốc hội Châu Quỳnh Dao (Đoàn tỉnh An Giang) nêu rõ, biện pháp tài chính được đưa ra để tăng cường sức chống chịu của nhân dân trước thảm ngoại thiên tai chưa đề cập đến lĩnh vực bảo hiểm. Trong khi đó, hiện tỉ lệ người dân tham gia mua bảo hiểm nông nghiệp rất thấp, ngoài việc do chưa có điều kiện kinh tế còn do quy định chưa phù hợp, ngay cả doanh nghiệp bảo hiểm cũng ngần ngại...

Đại biểu Quốc hội Châu Quỳnh Dao (Đoàn tỉnh An Giang). Ảnh: Quochoi.vn
Vì thế, đại biểu đề nghị Chính phủ, Quốc hội tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý về chính sách bảo hiểm, tăng mức hỗ trợ phí đóng bảo hiểm cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng khó khăn, vùng nông thôn ở mức 20 đến 50% để khuyến khích người dân tham gia; tích hợp bảo hiểm và hệ sinh thái tín dụng nông nghiệp để gắn bảo hiểm tài sản với vốn vay để giảm rủi ro và hạn chế nợ xấu; phát triển bảo hiểm vi mô chi phí thấp cho người dân thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đồng thời có chính sách ưu đãi về thuế, hỗ trợ rủi ro về chính sách cho các doanh nghiệp bảo hiểm để chung tay giúp người dân qua cơn hoạn nạn.
Đại biểu Quốc hội Hà Sỹ Đồng (Đoàn tỉnh Quảng Trị) cho rằng, các chỉ tiêu tổng quát và cụ thể còn thiếu cơ sở thực tiễn, chưa được lượng hóa đầy đủ, chưa phản ánh rõ điều kiện mới của chính quyền địa phương 2 cấp và thực trạng sinh kế, hạ tầng, nguồn lực đồng bào dân tộc thiểu số. Đại biểu đề nghị rà soát lại toàn bộ hệ thống chỉ tiêu theo hướng: rõ cơ sở chính trị, pháp lý, thực tiễn đo lường được; phản ánh đúng đặc thù vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; chuyển từ tiếp cận “đếm tiêu chí” sang “đánh giá kết quả thực chất”.
































