Đại biểu đề nghị không 'đóng khung' độ tuổi học sinh vào lớp 10

Theo Đại biểu Trần Thị Nhị Hà (Đoàn Hà Nội), việc quy định 'Tuổi của học sinh vào học lớp 10 là 15 tuổi và được tính theo năm' là chưa thật sự phù hợp trong bối cảnh đang thúc đẩy phát triển nhân tài và xây dựng nền giáo dục mở, linh hoạt, hiện đại.

Bà Trần Thị Nhị Hà phát biểu (Ảnh: Quang Vinh)

Bà Trần Thị Nhị Hà phát biểu (Ảnh: Quang Vinh)

Không nên áp dụng cứng một mốc tuổi duy nhất

Ngày 20/11, Quốc hội thảo luận ở hội trường về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục; dự án Luật Giáo dục đại học (sửa đổi); dự án Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi). Góp ý về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục, Đại biểu Trần Thị Nhị Hà (Đoàn Hà Nội) cho rằng, việc quy định “Tuổi của học sinh vào học lớp 10 là 15 tuổi và được tính theo năm” (khoản 7 Điều 19) của dự thảo Luật là chưa thật sự phù hợp trong bối cảnh đang thúc đẩy phát triển nhân tài và xây dựng nền giáo dục mở, linh hoạt, hiện đại.

Đại biểu dẫn chứng, thực tiễn trong nước và kinh nghiệm quốc tế cho thấy, có những học sinh xuất sắc, vượt trội, hoàn toàn có khả năng học vượt lớp, vượt cấp. Nếu áp dụng cứng một mốc tuổi duy nhất, chúng ta vô hình trung đang “đóng khung” sự phát triển của những tài năng đặc biệt mà lẽ ra phải được khuyến khích, bồi dưỡng và tạo điều kiện.

Ngược lại, cũng có những trường hợp học sinh ốm đau, gián đoạn học tập trong một hoặc vài năm, dẫn tới việc không thể đáp ứng yêu cầu tuổi khi vào lớp 10. Nếu luật quy định cứng như vậy, sẽ vô tình tạo ra rào cản cho chính các em, những đối tượng cần được hỗ trợ nhất.

“Đây là nội dung mang tính kỹ thuật và điều hành, vì vậy không nên quy định trong luật, đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành thông tư quy định nội dung này”, đại biểu Nhị Hà nói.

Về Điều 32 sách giáo khoa Giáo dục phổ thông, dự thảo luật quy định sách giáo khoa được biên soạn để cụ thể hóa chương trình và hội đồng thẩm định được thành lập theo từng môn học, hoạt động giáo dục ở từng cấp học. Tuy nhiên, chưa xác định rõ môn học nào bắt buộc phải có sách giáo khoa và môn nào không nhất thiết phải sử dụng sách.

Theo đại biểu, trong thực tiễn nhiều môn học mang tính trải nghiệm, vận động như Giáo dục thể chất, Hoạt động trải nghiệm nhưng vẫn được biên soạn và in ấn đầy đủ sách giáo khoa, trong khi học sinh và phụ huynh hầu như ít khi sử dụng. Điều này gây lãng phí nguồn lực, tăng chi phí xã hội không cần thiết.

Dẫn kinh nghiệm quốc tế cho thấy việc không bắt buộc có sách giáo khoa đối với các môn thiên về thực hành là hoàn toàn phù hợp, đại biểu kiến nghị, việc quyết định sử dụng hay không sử dụng sách giáo khoa cho từng môn học cần phải có quy định rõ ràng và giao cơ quan chuyên môn quy định chi tiết bằng văn bản dưới luật.

Xây dựng một khung pháp lý có tính mở cho hệ thống giáo dục đại học

Đối với Dự thảo Luật Giáo dục Đại học sửa đổi, đại biểu đoàn Hà Nội cho rằng dự thảo hiện đang liệt kê cụ thể các loại cơ sở giáo dục đại học như: trường đại học, học viện, đại học, đại học quốc gia, đại học vùng và cơ sở được thành lập theo hiệp định quốc tế. Hiện nay, cả nước có hai đại học quốc gia và ba đại học vùng.

Nếu đưa trực tiếp các mô hình này vào luật, vô hình trung đang “ghi lại hiện trạng”, thay vì xây dựng một khung pháp lý có tính mở, có tầm nhìn, đủ linh hoạt để đón nhận sự phát triển và đổi mới của hệ thống giáo dục đại học trong tương lai.

Đại biểu Nhị Hà đề xuất, cần phân định lại hệ thống cơ sở giáo dục đại học theo thông lệ quốc tế và phù hợp với thực tiễn Việt Nam, bảo đảm rõ ràng, dễ hiểu. Chỉ nên xác lập hai mô hình cơ bản đại học đa ngành, đa lĩnh vực và đại học chuyên ngành đối với những lĩnh vực đặc thù.

Trong đó, đại học đào tạo đa lĩnh vực cần được xác định là mô hình đào tạo toàn diện ở tất cả các trình độ của giáo dục đại học. Đại học quốc gia được xếp trong nhóm này, nhưng với vị thế đặc biệt được giao những nhiệm vụ tầm cỡ quốc gia và cần được quy định rõ về cơ chế đặc thù do Chính phủ hướng dẫn, nhằm bảo đảm nguồn lực đầu tư mũi nhọn và sự khác biệt tạo điều kiện phát triển theo hướng Đại học tinh hoa. Đối với các đại học vùng có thể được sắp xếp vào mô hình đại học đa ngành, đa lĩnh vực.

Ngoài ra, với mô hình đại học chuyên ngành, tập trung vào những ngành đặc thù ở tất cả các trình độ của giáo dục đại học và sau đại học. Việc đào tạo và cấp văn bằng, chứng chỉ cần được thực hiện thống nhất theo đặc thù của từng chương trình, bảo đảm tính chuyên sâu và đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực.

Việt Thắng - Trung Hiếu

Nguồn Đại Đoàn Kết: https://daidoanket.vn/dai-bieu-de-nghi-khong-dong-khung-do-tuoi-hoc-sinh-vao-lop-10.html