Đại biểu: Cần có quy định nghiêm cấm việc đóng dấu mật không đúng quy định
Đại biểu Nguyễn Phương Thủy, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội đề xuất có quy định cấm hành vi đóng dấu mật không đúng quy định khi thảo luận về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo vệ bí mật Nhà nước.
Chiều 31-10, Quốc hội đã thảo luận tại tổ về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo vệ bí mật Nhà nước.
Cần ngăn ngừa tình trạng lạm dụng dấu mật
Phát biểu tại tổ, đại biểu Nguyễn Phương Thủy, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội, cho hay Luật Bảo vệ bí mật Nhà nước thời gian qua đã góp phần rất quan trọng trong việc bảo vệ an toàn thông tin thuộc phạm vi bí mật nhà nước.
Tuy nhiên, thực tiễn thi hành cũng bộc lộ các hạn chế như một số thủ tục còn rườm rà, tạo gánh nặng hành chính, thậm chí gây áp lực cho đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp quản lý, sử dụng tài liệu có chứa thông tin bí mật nhà nước.
Theo đại biểu, dự thảo sửa đổi đã có những bước tiến, song để hoàn thiện hơn, đại biểu đề xuất tập trung vào một số nội dung cốt lõi; trong đó có quy định nghiêm cấm sử dụng hệ thống trí tuệ nhân tạo (AI) để vi phạm pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước (khoản 10, Điều 5, dự thảo Luật).

Đại biểu Nguyễn Phương Thủy, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội. Ảnh: Trọng Phú
“Trí tuệ nhân tạo là thành tựu công nghệ của nhân loại, nhưng các hành vi xâm nhập, truy cập hoặc sử dụng trái phép thông tin bí mật nhà nước vốn đã được điều chỉnh trong các quy định hiện hành. Việc tách riêng ‘AI’ thành một hành vi bị cấm là chưa rõ về cơ sở pháp lý và thực tiễn”, bà nêu ý kiến. Đồng thời bà đề nghị cơ quan soạn thảo cần giải trình cụ thể hơn về lý do đưa quy định này vào luật.
Đại biểu cũng chỉ ra một thực tế đáng chú ý thời gian qua, có hiện tượng nhiều cơ quan, đơn vị đóng dấu “mật” hoặc “tối mật” cho cả những tài liệu không thuộc danh mục bí mật nhà nước, thậm chí có dấu hiệu cố ý đóng dấu mật để che giấu thông tin.
“Điều này không chỉ hạn chế quyền tiếp cận thông tin của người dân mà còn ảnh hưởng đến tính công khai, minh bạch của hoạt động công vụ. Ngay cả báo chí khi tác nghiệp cũng gặp khó khăn vì nhiều tài liệu bị đóng dấu ‘mật’ một cách không cần thiết”, bà nói.
Đại biểu đề nghị bổ sung hành vi “đóng dấu mật không đúng quy định” vào danh mục các hành vi bị nghiêm cấm, nhằm ngăn ngừa tình trạng lạm dụng, bảo đảm luật được thực thi đúng mục đích.
Tiêu chí tài liệu mật phải rõ ràng, thống nhất
Về phạm vi bí mật nhà nước (Điều 7), bà Thủy nhấn mạnh chỉ những tài liệu mà “nếu bị lộ, bị mất có thể gây nguy hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc” mới được coi là bí mật nhà nước.
“Không phải mọi tài liệu thuộc các lĩnh vực được liệt kê đều đương nhiên là tài liệu mật. Chúng ta từng thấy nhiều tài liệu liên quan đến công tác cán bộ bị thu hồi sau khi phát, dù nội dung đã được công khai trên truyền thông. Nếu tiếp tục duy trì tư duy ‘mặc định đóng dấu mật’, sẽ gây lãng phí và làm giảm tính minh bạch trong hoạt động của bộ máy”, đại biểu nói.
Bà cho rằng luật cần quy định rõ tiêu chí xác định thế nào là tài liệu mật, trường hợp nào phải đóng dấu, trường hợp nào không, để tránh mỗi nơi hiểu và áp dụng khác nhau.
Đại biểu cũng nêu thêm một bất cập thực tế trong quá trình giải mật. Nhiều tài liệu, tờ trình hoặc nghị quyết trình ra Quốc hội bị đóng dấu “mật” trong giai đoạn chuẩn bị. Khi Quốc hội đã thảo luận và biểu quyết thông qua, các tài liệu này vẫn phải chờ cơ quan trình thực hiện thủ tục giải mật thì mới được công bố.
“Có nghị quyết phải chờ 3–4 tháng mới hoàn tất giải mật, khiến việc triển khai thực hiện bị chậm trễ không đáng có”, bà nêu.

Đại biểu Nguyễn Phương Thủy, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội. Ảnh: Trọng Phú
Theo bà, việc Chính phủ trình tài liệu ra Quốc hội đã là một quy trình công khai, nên không cần thêm thủ tục giải mật sau khi văn bản được thông qua. Đại biểu đề nghị bổ sung một quy trình riêng, đơn giản hơn đối với việc giải mật những nội dung đã được cơ quan có thẩm quyền thông qua.
Đề cập đến phạm vi lưu hành tài liệu mật, đại biểu cho rằng dự thảo luật hiện còn khá chung chung. Thực tế, rất ít văn bản ghi rõ phạm vi được phép tiếp cận, dẫn tới tình trạng nơi thì mở quá rộng, nơi lại siết quá chặt.
“Ngay tại các kỳ họp Quốc hội, có tài liệu gửi đến đại biểu nhưng không rõ trợ lý hay chuyên viên có được xem hay không. Quy định hiện nay chưa cụ thể, khiến việc thực hiện thiếu thống nhất”, đại biểu nhận định.
Bên cạnh đó, bà cũng chỉ ra một khoảng trống pháp lý là hiện chưa có quy định về “tài liệu lưu hành nội bộ”, loại tài liệu phổ biến trong các cơ quan hành chính nhà nước. Nhiều trường hợp cán bộ bị nhắc nhở, kỷ luật vì chia sẻ “tài liệu nội bộ”, dù tài liệu đó không hề được đóng dấu mật.
Theo đại biểu, trong bối cảnh chuyển đổi số, việc sử dụng trí tuệ nhân tạo trong hoạt động công vụ là xu thế tất yếu. Tuy nhiên, do thiếu quy định rõ ràng về quản lý dữ liệu và phạm vi tài liệu nội bộ, nhiều cán bộ e ngại, không dám ứng dụng công nghệ mới vì sợ vi phạm quy định bảo mật. Đây chính là một trong những rào cản khiến tiến trình chuyển đổi số bị chậm lại.



























