Đa phương, song phương, khu vực: 3 trụ cột hội nhập kinh tế
Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, mà đã trở thành một trong những trụ cột chiến lược thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
3 trụ cột hội nhập
Từ khi chính thức gia nhập ASEAN (1995), tham gia AFTA (1996), đến khi bước vào WTO (2007), Việt Nam đã thể hiện rõ bản lĩnh, chủ động tham gia vào những “sân chơi” lớn nhất của toàn cầu.
Nếu như những năm đầu hội nhập, mục tiêu trọng tâm là mở cửa thị trường, thu hút đầu tư, thì đến nay, hội nhập đã chuyển sang giai đoạn sâu, rộng, đa tầng nấc, gắn chặt với việc hoàn thiện thể chế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và khẳng định vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.

Ảnh minh họa.
Theo Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế, trong suốt thời gian qua, Việt Nam đã triển khai tiến trình hội nhập dưới cả ba hình thức: Đa phương, song phương và khu vực.
Về đa phương, Việt Nam có quan hệ tích cực với các tổ chức tài chính lớn như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB). Bước ngoặt quan trọng là gia nhập WTO (2007) - mở ra thời kỳ hội nhập toàn diện, sâu rộng hơn.
Về khu vực, việc gia nhập ASEAN (1995), tham gia AFTA (1996), ASEM (1996), APEC (1998) đã đưa Việt Nam trở thành thành viên chủ động trong nhiều diễn đàn lớn.
Về song phương, đến nay Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 189 quốc gia, trong đó có 17 đối tác chiến lược và 13 đối tác toàn diện; ký kết trên 90 hiệp định thương mại song phương, hơn 60 hiệp định khuyến khích - bảo hộ đầu tư, 80 hiệp định chống đánh thuế hai lần.

Tháng 10/2024, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Phạm Minh Chính và Phó Tổng thống kiêm Thủ tướng Các Tiểu vương quốc Ả-rập thống nhất (UAE) Mohammed bin Rashid Al Maktoum chứng kiến lễ trao văn kiện Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam - UAE
Đặc biệt, trong 10 năm gần đây, Việt Nam tập trung mạnh vào các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, UKVFTA, RCEP, đưa Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở thương mại lớn nhất thế giới, kết nối trực tiếp với 60 nền kinh tế và chiếm trên 70% kim ngạch thương mại toàn cầu.
FTA - động lực mở rộng thị trường và đổi mới trong nước
Đáng chú ý, theo Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế, thành tựu nổi bật nhất của tiến trình hội nhập chính là việc tham gia và thực thi các FTA. Tính đến cuối năm 2024, Việt Nam đã tham gia 17 FTA, tạo ra “xa lộ” để hàng hóa Việt tiếp cận những thị trường khó tính nhất.
Không những vậy, việc thực thi FTA đã và đang tác động mạnh mẽ, tích cực đến hoạt động xuất khẩu của Việt Nam, trong đó:
Cơ cấu xuất khẩu hàng hóa chuyển dịch mạnh mẽ từ xuất thô sang sản phẩm công nghiệp. Năm 2024, Việt Nam có 37 mặt hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD, chiếm 94,3% tổng xuất khẩu, trong đó 8 mặt hàng vượt 10 tỷ USD, chiếm 69%.
Sử dụng ưu đãi FTA: Tỷ lệ kim ngạch hàng hóa xuất khẩu có C/O ưu đãi đạt trung bình 32 - 34%/năm, minh chứng rằng doanh nghiệp Việt đã biết tận dụng cơ hội.
Đầu tư nước ngoài: FDI liên tục tăng trưởng, với các tập đoàn đa quốc gia coi Việt Nam là điểm đến chiến lược. Ngành công nghiệp chế biến - chế tạo hưởng lợi rõ nhất, đưa Việt Nam vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Đặc biệt, Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế cho rằng, FTA không chỉ mở cửa thị trường, mà còn trở thành “cú huých” cải cách trong nước: từ hoàn thiện pháp luật, nâng cao tính minh bạch quản lý, đến thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong sản xuất.
Tuy đạt nhiều thành tựu, song hành trình hội nhập cũng đặt ra không ít thách thức. Trước hết, hoạt động sản xuất, xuất khẩu của doanh nghiệp vẫn phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu nước ngoài, dẫn đến rủi ro khi chuỗi cung ứng toàn cầu đứt gãy.
Thứ hai, khả năng tận dụng FTA chưa đồng đều. Nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa đủ năng lực đáp ứng quy tắc xuất xứ, tiêu chuẩn xanh, dẫn tới bỏ lỡ ưu đãi thuế quan.
Thứ ba, thách thức đến từ sức ép cạnh tranh. Khi mở cửa thị trường, doanh nghiệp trong nước phải đối diện trực tiếp với hàng hóa chất lượng cao từ EU, Nhật, Mỹ. Nếu không nâng chuẩn sản xuất, nguy cơ thua ngay trên sân nhà.
Hội nhập để khẳng định vị thế
Có thể nói, hội nhập quốc tế chính là “trường học lớn” giúp Việt Nam trưởng thành. Mỗi hiệp định ký kết không chỉ là một văn kiện thương mại, mà còn là lời cam kết cải cách. Mỗi lần mở cửa thị trường là một phép thử cho sức bền, sự linh hoạt và bản lĩnh của nền kinh tế.
Nhìn lại gần 30 năm (từ năm 1995 đến nay), Việt Nam từ một nền kinh tế bao cấp, khép kín, đã trở thành một trong những nền kinh tế mở nhất thế giới, với kim ngạch xuất nhập khẩu gấp gần 200 lần so với thời điểm 1995. Thành công ấy không chỉ nhờ lợi thế địa chính trị hay thị trường, mà trước hết là nhờ tư duy hội nhập chủ động, sáng tạo, có chọn lọc của Đảng và Nhà nước.

Công tác hội nhập đã giúp Việt Nam khẳng định vị thế trong cộng đồng quốc tế - một quốc gia năng động, đáng tin cậy, sẵn sàng đóng góp vào hòa bình và phát triển toàn cầu.
Hội nhập quốc tế, đặc biệt là hội nhập kinh tế, đã và đang tạo ra những thành quả mang tính đột phá cho Việt Nam: Mở rộng thị trường, thúc đẩy tăng trưởng, thu hút đầu tư, cải thiện đời sống nhân dân. Nhưng quan trọng hơn, hội nhập đã giúp Việt Nam khẳng định vị thế trong cộng đồng quốc tế - một quốc gia năng động, đáng tin cậy, sẵn sàng đóng góp vào hòa bình và phát triển toàn cầu.
Trong kỷ nguyên mới, khi thương mại quốc tế đối diện nhiều rủi ro từ bảo hộ, biến đổi khí hậu, cách mạng công nghiệp 4.0, thì hội nhập không còn là lựa chọn, mà là con đường tất yếu.
Trong bài viết “Vươn mình trong hội nhập quốc tế”, Tổng Bí thư Tô Lâm đã đánh giá: “Hội nhập kinh tế được xác định là trung tâm, hội nhập trên các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế với ưu tiên hàng đầu là cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng và thúc đẩy chuyển đổi số”.
Cũng theo Tổng Bí thư, đất nước ta đang bước vào kỷ nguyên vươn mình tới thịnh vượng, hùng cường, "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" đòi hỏi phải có tâm thế, vị thế mới và tư duy, cách tiếp cận mới về hội nhập quốc tế.
Sự ra đời Nghị quyết 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 của Bộ Chính trị về "Hội nhập quốc tế trong tình hình mới" là "quyết sách đột phá", đánh dấu bước ngoặt có tính lịch sử trong quá trình hội nhập của đất nước với việc định vị hội nhập quốc tế là động lực quan trọng đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới. Trong đó hội nhập quốc tế chuyển từ tiếp nhận sang đóng góp, từ hội nhập sâu rộng sang hội nhập đầy đủ, từ vị thế một quốc gia đi sau sang trạng thái một quốc gia vươn lên, tiên phong vào những lĩnh vực mới.
Chính vì vậy, trong thời gian tới, Đảng, Nhà nước xác định, công tác hội nhập kinh tế lấy Nghị quyết 59-NQ/TW làm kim chỉ nam. Cùng với quốc phòng, an ninh, "đẩy mạnh đối ngoại và hội nhập quốc tế" là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên.
Tổng Bí thư Tô Lâm cũng nhấn mạnh, tinh thần trọng yếu thường xuyên trong hội nhập quốc tế là phải tranh thủ nguồn lực, điều kiện thuận lợi bên ngoài cho mục tiêu bảo vệ Tổ quốc và phát triển đất nước từ sớm, từ xa; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, đảm bảo tốt nhất lợi ích của nhân dân.
Cùng đó, cần tận dụng hiệu quả các cam kết, thỏa thuận, liên kết kinh tế quốc tế, nhất là các FTA thế hệ mới, để tăng cường đan xen lợi ích, không để phụ thuộc vào một số ít đối tác. Hoàn thiện thể chế trong nước nhằm nâng cao năng lực thực thi các cam kết, thỏa thuận quốc tế. Xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù phù hợp nhằm đẩy mạnh thu hút FDI chất lượng cao, nhất là trong các lĩnh vực mới nổi, quan trọng, động lực mới cho tăng năng suất lao động như công nghệ thông tin, viễn thông, chip bán dẫn, trí tuệ nhân tạo…
Với những kết quả từ hội nhập kinh tế trong suốt thời gian qua cùng đòn bẩy chính sách là Nghị quyết 59-NQ/TW, Việt Nam hoàn toàn có thể bước tiếp tự tin, hiện thực hóa khát vọng trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.
Đến nay, Việt Nam đã ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương, gần 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư; đàm phán, ký kết và thực thi 19 FTA song phương và đa phương với hầu hết các nền kinh tế lớn trên thế giới; trong đó 16 FTA đã có hiệu lực với hơn 60 đối tác, phủ rộng khắp các châu lục với tổng GDP chiếm gần 90% GDP toàn cầu, đưa Việt Nam trở thành một trong những nước dẫn đầu khu vực về tham gia các khuôn khổ hợp tác kinh tế song phương và đa phương.