CTV - Dấu ấn riêng
Ngày 18/8/2007, Ðài Phát thanh - Truyền hình tỉnh Cà Mau (CTV) tổ chức họp mặt Kỷ niệm 30 năm phát sóng phát thanh (19/8/1977-19/8/2007) và 20 năm phát sóng truyền hình (19/8/1987-19/8/2007). Trong chương trình văn nghệ chào mừng, thí sinh Quan Thanh Thủy, giải Nhất tiếng hát Phát thanh - Truyền hình Cà Mau lần thứ 7-2007 hát bài 'Về Ðất Mũi' (Nhạc sĩ Hoàng Hợp - thơ Lê Chí). Lời thơ đó của Lê Chí tới bây giờ vẫn còn nhắc nhở chúng ta: 'Ơi! Ðất Mũi Cà Mau, trăm thương ngàn mến. Một hạt phù sa lấn biển thêm rừng. Ðều giục người đi nhanh nhanh đôi bàn chân, nhanh nhanh những nghĩ suy và ước vọng. Về đất biển Cà Mau, thấy đất trời thêm rộng lớn...'.
Lời bài thơ này, Nhà thơ Lê Chí viết vào tháng 10/1976 (in trong tập thơ NHỚ). Tới thời điểm này - 2025, đã 49 năm trôi qua nhưng vẫn luôn nhắc nhớ mỗi người trong hành trình của mình.

Ai phá rừng?
Năm 1989, tôi chuyển từ Báo Minh Hải về Ðài Phát thanh - Truyền hình Cà Mau (CTV), ghi dấu ấn đầu tiên bằng phóng sự “Ai phá rừng?”, đoạt Huy chương Bạc Liên hoan Truyền hình toàn quốc. Những năm tháng ấy đời sống khó khăn, các cơ quan cấp tỉnh tìm rừng ngập mặn Năm Căn nuôi tôm, hy vọng tăng thêm thu nhập. Tôi và anh Phan Trọng Nghĩa đi len lỏi trong rừng đước bạt ngàn vừa được đốn hạ để lập vuông nuôi tôm. Xót xa những cây đước cao “ngất trời” bị hủy diệt, chúng tôi cứ bấm máy, bấm máy (M7)... “Vậy là hết band” - anh Nghĩa bảo. Tôi nói: “Anh tìm cách liên hệ nhờ Ðài gửi band tiếp (VHS)". Chúng tôi tiếp tục đi vào rừng...”.
Bằng cách nào đó đi quay và chúng tôi quay hết 7 cuộn band VHS bằng 840 phút band.
Anh Nghĩa suy tư: “Quay phóng sự tài liệu sao mà tốn band quá trời. Bằng người ta quay một phim truyện”.
Sau đó về huyện Năm Căn, chúng tôi hẹn với Viện Kiểm sát Nhân dân và Công an huyện. Sau khi làm việc, chú Bảy Năng, Phó viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân huyện, không đồng ý trả lời phỏng vấn với lý do: “Chúng tôi làm ở huyện, còn việc phá, khai thác rừng làm vuông tôm là của các cơ quan trên tỉnh. Sao chúng tôi dám nói!”.
Chúng tôi ra về, sáng hôm sau chúng tôi đến Viện Kiểm sát Nhân dân huyện Năm Căn lần nữa, tôi nói với chú Bảy Năng: “Hôm qua chú không trả lời phỏng vấn thì bây giờ chú, cháu mình trao đổi để con biết tình hình thôi, số liệu nghe chú...”.
Trước đó tôi với anh Nghĩa hội ý và đặt máy quay trên một chiếc bàn từ xa, thu âm bằng mi của máy quay M7. Chú Bảy Năng nói: “Mấy ông xuống liên hệ UBND huyện rồi vào lâm trường xin đất rừng nói là “làm vuông” tự túc cho cơ quan. Cả mấy chục cơ quan, ban, ngành cấp tỉnh...”.
Về phòng nghỉ, kiểm tra lại âm thanh, anh Nghĩa vui ra mặt: Âm thanh rõ lắm Phi Thường ơi!
Sau chuyến đi thực tế vài ngày, chúng tôi trở lại Ðài. Tôi và anh Nghĩa cùng nhau ngồi xem hết 840 phút band đã quay. Trước đó, Ban Giám đốc quyết định chọn đề tài này dự Liên hoan Truyền hình toàn quốc. Theo quy định của Ban Tổ chức liên hoan, phóng sự ngắn không quá 8 phút, sau khi dựng xong (7 phút 12 giây), tôi và anh Nghĩa quyết định thay lời bình đoạn kết, và cho người liên hệ phát thanh viên Kiều Diễm vào đọc lại:
... “Ðồng Tháp Mười chăng? Không! Ðây là một góc nhỏ của rừng xã Tân Ân!”.
Sau đó cuốn band được đưa lên xe 15 chỗ ngồi cùng nhóm người được cử đi dự Liên hoan Truyền hình toàn quốc - thẳng tiến lên Ðài Truyền hình Cần Thơ - lúc đó là 3 giờ 30 phút sáng.

Lễ khởi công công trình trung tâm kỹ thuật Ðài PT-TH Cà Mau. Ảnh tư liệu
Âm vang miền Tây
Tháng 9/2005, tôi dự Hội nghị tổng kết ngành Phát thanh Tiếng nói Việt Nam tại Nhà hát lớn Hà Nội. Khoảng 15 giờ, tôi có điện thoại cho anh Tư Lĩnh (Nguyễn Hồng Lĩnh), Giám đốc Ðài Phát thanh - Truyền hình TP Cần Thơ.
- Chú mầy đang ở đâu? Anh hỏi.
- Em đang dự hội nghị nè.
- Mầy ra Hồ Tây liền, có việc cần bàn, nghe chưa?
Tôi đến Hồ Tây thì thấy các anh: Tư Lĩnh; anh Tư Hà (Nguyễn Thanh Hà), Giám đốc Ðài Phát thanh - Truyền hình Kiên Giang; anh Hai Nhã (Trần Nhã), Giám đốc Ðài Phát thanh - Truyền hình Tiền Giang. Anh Tư Hồng Lĩnh mở đầu: “Hiện tại mỗi đài tự phát sóng trong phạm vi địa phương mình. Bây giờ chúng ta phải liên kết lại để phạm vi phát sóng rộng hơn, sẽ thu được quảng cáo. Nhưng phải có chương trình, có tên gọi chung cho các Ðài. Chuyện này giao cho thằng Út Cà Mau (tôi) suy nghĩ, đề xuất”.
Tháng 9 ở Hà Nội là thời điểm giao mùa từ hè sang thu. Bất chợt có những cơn mưa, chúng tôi ngồi trong một cái chòi thủy tạ ăn bánh tôm Hồ Tây và uống bia hơi Hà Nội. Sau đó không lâu, chương trình “Âm vang miền Tây” chính thức lên sóng từ Ðài Phát thanh - Truyền hình TP Cần Thơ, kết nối: Tiền Giang, Kiên Giang và Cà Mau.
Nhạc sĩ Lê Nghiệp viết lời và phối khí “Âm vang miền Tây”... “Hãy đến với nhau trong tình thân ái/ Hãy đến với nhau trong vòng tay bạn bè/ Luôn trong tim mang đậm mãi chất phù sa/ Cùng chung tay xây nền văn học nghệ thuật nước nhà...”.
Xoay tua 3 tháng 1 lần, mỗi Ðài tự xây dựng chương trình văn nghệ. Vậy là chương trình văn nghệ tạp kỷ 1 quý 1 kỳ được kết nối trên 4 Ðài: Cần Thơ, Cà Mau, Kiên Giang và Tiền Giang. Chương trình nhanh chóng chiếm được tình cảm, sự mến mộ của đông đảo khán, thính giả đồng bằng sông Cửu Long. Trở thành một thương hiệu mạnh, thu hút nguồn quảng cáo của các Ðài.
Một chương trình truyền hình trực tiếp có bán vé và lập Quỹ Học bổng “Âm vang miền Tây” là dấu mốc lịch sử của các Ðài Phát thanh - Truyền hình địa phương.
Tôi đi nghiên cứu... xin
Trời Hà Nội vào thu, cái se lạnh mênh mang gợi nhớ: Nghe tiếng thu về, xào xạc rơi, lòng chợt bâng khâng, niềm thương nhớ. (“Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư). Tôi và anh Năm Kỳ (Lê Huỳnh Kỳ), Giám đốc Sở Kế hoạch và Ðầu tư tỉnh Cà Mau hẹn gặp anh Ba Sang (Nguyễn Minh Sang), Phó vụ trưởng Vụ Ðịa phương, Bộ Kế hoạch và Ðầu tư, phụ trách đồng bằng sông Cửu Long.
Qua câu chuyện với anh Ba Sang, tôi nói:
- Thưa anh Ba! Ðài Phát thanh - Truyền hình Cà Mau (CTV), ngoài nhiệm vụ chính trị ra, CTV còn là nơi giải trí, là “một quán ăn” với đầy đủ thực phẩm tươi sống. Muốn vậy, Ðài phải biết xây dựng chương trình truyền hình hay, hấp dẫn người xem... Bởi vậy, rất cần hệ thống truyền dẫn sóng, phát sóng hiệu quả đến công chúng xem Ðài.
Tỉnh Cà Mau là tỉnh cuối cùng cực Nam Tổ quốc. Xa các trung tâm kinh tế - văn hóa lớn, chưa có trường đại học..., Ðài rất thiếu thốn thiết bị kỹ thuật... Rất cần, rất cần sự hỗ trợ từ Trung ương. Ðể món ngon, lạ, hấp dẫn từ các chương trình truyền hình của Ðài đến được với 1,2 triệu người dân trong tỉnh Cà Mau.
Ðó là nhiệt huyết của những người làm truyền hình, là ý chí của lãnh đạo tỉnh, là nguyện vọng của người dân vùng chót mũi Cà Mau.

Ông Jack O’ Dear, Giám đốc điều hành Hãng Harris (USA) tại lễ khánh thành máy phát hình 5 KW băng VHF ngày 21/6/1994. Ảnh tư liệu

Phát thanh viên Ðức Bình, Kiều Diễm trong giờ thu phát sóng Ðài PT-TH Cà Mau năm 1997. Ảnh tư liệu

Lễ bế giảng lớp phóng viên, biên tập khóa II năm 1989. Ảnh tư liệu
Tết Ất Dậu năm 2005 được coi là năm nhiều may mắn, với hy vọng về sự phát triển ổn định, là sự chuyển mình của đất nước. Với CTV Cà Mau được nhớ đến là mùa xuân đầy niềm vui, vì lần đầu tiên đón nhận xe truyền hình lưu động (xe màu) được Trung ương đầu tư, cũng là lần đầu tiên CTV truyền hình trực tiếp sự kiện “Kỷ niệm 30 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2005) của tỉnh Cà Mau.
Tôi nhớ có lần làm việc với đoàn công tác của Ủy ban Văn hóa Giáo dục của Quốc hội, Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau, anh Bùi Công Bửu trong phát biểu của mình có kiến nghị: Cục tần số vô tuyến điện Việt Nam xem xét cấp cho Ðài Phát thanh - Truyền hình Cà Mau kênh truyền hình CTV2! Qua đó, CTV2 sẽ mở kênh truyền hình chuyên biệt về khoa học giáo dục, phổ cập kiến thức văn hóa, khoa học - kỹ thuật cho đồng bào trong tỉnh Cà Mau. Vì Cà Mau chưa có trường đại học.
Sau đó, anh Trịnh Minh Thành, Phó chủ tịch UBND tỉnh và tôi ra Hà Nội trình công văn và gặp trực tiếp Cục trưởng Cục tần số Nguyễn Thúy Trầm xin giấy phép lập kênh truyền hình CTV2. Vậy là Ðài Phát thanh - Truyền hình Cà Mau có 2 kênh truyền hình: CTV1 và CTV2.
Ðây là giai đoạn có bước phát triển đáng chú ý, đã nâng tầm nội dung và hiện thực hóa cơ sở vật chất kỹ thuật, mở rộng phạm vi phủ sóng đến tận vùng sâu, vùng xa như U Minh, Ðất Mũi... Kết nối qua mạng truyền hình cáp đến TP Hồ Chí Minh, tăng thời lượng phát sóng từ 6 giờ/ngày lên 12 giờ/ngày. Nguồn thu từ quảng cáo tăng, thu nhập của cán bộ, viên chức và người lao động tăng; bắt đầu làm quen cụm từ: đóng thuế thu nhập! Ðó cũng là thời kỳ CTV liên kết với các công ty sản xuất chương trình truyền hình, công ty truyền thông quảng cáo, mở rộng giao lưu hợp tác với các Ðài bạn.
Tôi nhớ hôm kỷ niệm 30 năm phát sóng phát thanh và 20 năm phát sóng truyền hình, trước khi diễn ra họp mặt Ðảng ủy, Ban Giám đốc Ðài chủ trương mời lãnh đạo, sở, ban, ngành trong tỉnh, mỗi huyện 5 đại biểu, gồm: huyện ủy, UBND huyện, ban tuyên giáo, phòng văn hóa thông tin và đài truyền thanh huyện. Ngoài tỉnh, mời tất cả các Ðài Phát thanh - Truyền hình vùng đồng bằng sông Cửu Long và các công ty có quan hệ hợp tác.
Phải nói hôm ấy kệ hoa dựng chật kín lối đi, trên tầng cuối hội trường là hoa và quà lưu niệm không sao đếm xuể. Có một món quà bất ngờ và xúc động. Trên 200 cánh hoa lan được kết sẵn, đóng thùng, được chở bằng máy bay TR72 từ TP Hồ Chí Minh về Cà Mau. Ðể rồi sau đó, Ban Tổ chức cử người cài trước ngực mỗi đại biểu cánh hoa lan màu tím, như một lời nhắc nhở mối quan hệ hợp tác cùng nhau phát triển. Trong buổi tiệc chào mừng, sau những lời chào hỏi xã giao, bà Trung Lệ Ngân Hà, Giám đốc Công ty Truyền thông Quảng cáo Tinh Hoa Việt, bộc bạch: “Sự rõ ràng, minh bạch trong cách làm việc của quý đài, giúp chúng tôi luôn tin tưởng và an tâm hợp tác. Tôi rất ấn tượng với những ý tưởng sáng tạo để xây dựng những chương trình truyền hình mới, thu hút khá đông khán, thính giả, đã mang lại lợi ích cho các bên. CTV không chỉ bắt kịp xu thế thời đại, đồng thời giữ gìn được bản sắc văn hóa của Cà Mau”.
Từ ý tưởng câu thơ: Từ rừng dương Trà Cổ đến rừng đước Năm Căn, chúng tôi đã ký kết nghĩa 2 đài Quảng Ninh - Cà Mau.
Nội dung liên kết ghi rõ: Hai Ðài tạo điều kiện hỗ trợ phóng viên đến tác nghiệp trên địa bàn của nhau. Giới thiệu, quảng bá hình ảnh con người 2 tỉnh Quảng Ninh - Cà Mau, từ Khai Long đến Hạ Long. Trực tiếp, tiếp sóng truyền hình trực tiếp sự kiện khi tỉnh có yêu cầu. Nối dài mạch sóng từ Móng Cái đến Mũi Cà Mau - Là nơi kết thúc dải đất hình chữ S. Ðiều kỳ diệu đã đến: Nơi duy nhất của nước Việt nhìn mặt trời mọc hướng Ðông và lặn xuống biển Tây. Ðây là nơi giao thoa giữa sông, rừng ngập mặn và biển. Ðó là sự trường tồn của dân tộc Việt Nam qua hàng ngàn năm lịch sử.

Tập thể Ðài PT-TH Cà Mau đón nhận Huân chương hạng Nhì. Ảnh tư liệu
Bước chân thần tốc
Năm 2008 có nhiều thí sinh 0 điểm trong bài thi môn Lịch sử. Tỷ lệ điểm dưới trung bình rất cao. Giáo viên dạy thiếu sự sáng tạo, khiến học sinh khó hiểu, khó nhớ. Học sinh coi môn Lịch sử là môn học phụ, không quan trọng.
CTV kết hợp Công ty Truyền thông quảng cáo Nhất xây dựng chương trình truyền hình lịch sử với tên gọi: “Bước chân thần tốc”.
Mô phỏng về cách hành quân của Vua Quang Trung - Nguyễn Huệ trong trận chiến đánh thắng quân Thanh năm 1789. Thể loại “Trò chơi vận động tập thể”. Hình thức: mỗi đội thi 4 người, 1 người chỉ huy, 2 người khiêng võng, 1 người nghỉ ngơi thay phiên. Mỗi đợt thi 4 đội, cùng xuất phát, liên tục vượt qua 4 vòng thử thách, chọn 2 đội đến đích sớm nhất vào vòng tứ kết và chung kết.
Bốn vòng thử thách gồm: Những nẻo đường quê (vượt qua cầu khỉ bắc qua kinh - ý nghĩa rời làng quê để gia nhập nghĩa quân Tây Sơn; Ðôi hia vạn dặm - hai người kết thành một đội di chuyển trên đôi hia - ý nghĩa có kỷ luật mới tiến nhanh được; Ði tìm mật mã - xuống xuồng, chèo ra điểm lấy mật mã - ý nghĩa đồng lòng để tìm ra chí hướng; Bước chân thần tốc - hai người khiêng một người nằm võng giải mật mã, một người cầm cờ lệnh, tìm hướng dẫn đội đến quan chủ khảo để giải mật mã. Giải mật mã đúng thì cả đội mới được lên đài vinh quang cầm cờ, báo tin chiến thắng.
Một bài học lịch sử qua môi trường vận động ngoài trời vui nhộn, hấp dẫn, hồi hộp... và vỡ òa trong niềm vui chiến thắng.
Từ kết quả của “Bước chân thần tốc”, chúng tôi tiếp tục xây dựng chương trình truyền hình nhân đạo: “Khát vọng sống”. Mục tiêu là kết nối cộng đồng, trợ giúp những mảnh đời bất hạnh hồi sinh. Khát vọng sống bằng trải nghiệm thực tế, cùng các giải pháp linh hoạt, xây dựng hệ thống các câu lạc bộ đội - nhóm thiện nguyện, hình thành phong trào nhân ái tại địa phương.
Nhà báo Nguyễn Ðức Tiến, Tổng Giám đốc Công ty Truyền thông Quảng cáo Nhất, trải lòng mình: “Bởi chúng ta đã qua ngưỡng cuộc đời; lợi danh, chức tước đâu là điều mình bận tâm. Nên ẩn mình trong sự bình dị của cuộc sống mà làm được gì cho nhân sinh thì làm. Tôi rưng rưng nhớ những ngày đầu đi tìm và trao gởi cho nhân vật niềm tin vào khát vọng sống. Biết bao mảnh đời nghiệt ngã đã gượng dậy và bước tiếp phận làm người!”.

Ban lãnh đạo Ðài PT-TH nhận Huân chương Lao động. Ảnh tư liệu
Tôi trả lời chất vấn Hội dồng Nhân dân tỉnh
Một buổi sáng tháng 11/2007, anh Trịnh Minh Thành, Phó chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau, điện cho tôi:
- Phi Thường ơi! Thường trực UBND tỉnh thống nhất những câu hỏi chất vấn của cử tri liên quan đến Ðài Phát thanh - Truyền hình, giao Giám đốc Ðài trực tiếp trả lời.
Thông lệ các kỳ họp HÐND tỉnh do Ðài CTV truyền hình trực tiếp. Kỳ họp lần thứ 11, kỳ họp cuối năm 2007, HÐND tỉnh thông qua nhiều nghị quyết quan trọng, trong đó có nghị quyết về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Chủ tọa kỳ họp đề nghị đoàn thư ký thông qua nội dung cử tri chất vấn Ðài Phát thanh - Truyền hình Cà Mau:
- Vì sao Ðài chiếu phim nước ngoài nhiều, chiếu phim Việt Nam rất ít?
- Tại sao quảng cáo chen vào giữa phim?
- Thời lượng phát chương trình sân khấu cải lương và ca cổ quá ít.
Ông bà mình thường nói “Làm dâu trăm họ”, nhưng đối với Ðài Phát thanh - Truyền hình Cà Mau, phải làm dâu 1,2 triệu họ (theo dân số Cà Mau). Chúng tôi nghĩ và xác định khán giả truyền hình là đối tượng phục vụ cần nhắm tới. Luôn coi khán giả là đối tượng trung tâm. Trong thế giới phẳng thì chúng tôi đã biết phân khúc từng nhóm khán giả như thiếu niên, người lao động phổ thông và người lớn tuổi. Các nhóm đối tượng này tương ứng các chương trình truyền hình như: “Những bông hoa nhỏ”, “chiếu phim” và dân ca nhạc cổ - sân khấu cải lương. Trong điều kiện cho phép, chúng ta chỉ phát sóng 12 giờ/ngày; cơ cấu chương trình trong tuần: Thứ Bảy, cải lương; Chủ nhật, thế giới đó đây; Thứ Hai, phim truyện Việt Nam; Thứ Ba đến thứ Sáu, phim truyện nước ngoài, đan xen phim tài liệu, được sắp xếp phát sóng trong các chương trình còn lại khung giờ khác nhau trong ngày.
Theo quy định, “Tỷ lệ phim truyện Việt Nam phát sóng trên các kênh truyền hình của các Ðài Phát thanh - Truyền hình Trung ương và địa phương phải đảm bảo ít nhất 20% tổng thời lượng phát sóng”. Trên thực tế, chưa có đài nào thực hiện được, kể cả Ðài Truyền hình Việt Nam (VTV). Chi phí cho phim truyện truyền hình khá cao. Dự chi khoảng 80-120 triệu đồng/tập 45 phút. Chúng ta thử làm phép tính: Một phim truyện truyền hình 20 tập x 120 triệu = 2 tỷ 400 triệu đồng. Trong khi đó, mua hoặc trao đổi quảng cáo giữa các đài và các đối tác như nhà sản xuất, công ty phát hành phim, công ty quảng cáo chỉ chiếm 50% giá trị phim truyện Việt Nam. Bởi vậy mới có câu chuyện: quảng cáo vào giữa phim. Vì mỗi spot quảng cáo chen vào giữa phim giá tăng gấp nhiều lần so với đầu và cuối phim. Khán giả truyền hình lúc bấy giờ có câu nói: Phim Việt Nam như ông già leo núi!
Tương tự như sản xuất phim truyện truyền hình, dân ca, nhạc cổ và sân khấu cải lương ở các rạp hát thiếu vắng ánh đèn sân khấu. Các đoàn cải lương vào tận vùng sâu, vùng xa tìm kiếm khán giả. Bộ môn nghệ thuật truyền thống dân tộc “thiếu đất để sống”. Không nuôi nấng được mảnh đất màu mỡ làm sao gặt hái được mùa vàng?!
Xong phần trình bày của mình, tôi về bàn ngồi trong lòng âu lo, chờ ý kiến của đại biểu HÐND.
Chủ tọa kỳ họp, Chủ tịch HÐND tỉnh, anh Lê Hồng My, hỏi:
- Phần trả lời chất vấn của Giám đốc Ðài quý vị nào còn ý kiến?
Một phút im lặng trôi qua, Chủ tịch Lê Hồng My nói:
- Vậy là phần trả lời chất vấn những vấn đề cử tri nêu ra của Giám đốc Ðài sẽ được thông qua.
Những ngày sau đó, dư luận bàn tán về Giám đốc Ðài Phát thanh - Truyền hình trả lời chất vấn trước HÐND tỉnh. Rất mừng là khán giả phần nào thấu hiểu trách nhiệm và lòng nhiệt huyết của những người làm nghề báo hình. Nhà báo Nguyễn Văn Tuấn, Giám đốc Ðài Phát thanh - Truyền hình tỉnh Hậu Giang, điện nói:
- Tôi nghe bồ trả lời chất vấn trước HÐND, vậy là sướng lắm rồi.
Còn Thiếu tướng Trần Triều Dương, Giám đốc Sở Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy TP Hồ Chí Minh thì nói:
- Anh nghe chú mày trả lời chất vấn trước HÐND tỉnh Cà Mau, làm anh khoái chí lắm. Rồi bà con khán giả sẽ hiểu và chia sẻ những khó khăn, hạn chế của Ðài... Cố lên chú em!
Tôi thấy vui và càng trăn trở nhiều hơn: phải làm thế nào để luôn có những chương trình truyền hình mới, hấp dẫn. Ða dạng hóa cách tiếp cận các chương trình chính luận và giải trí đối với từng đối tượng và nhóm đối tượng khán giả. Ðó là mục tiêu, là động lực phấn đấu của những người làm truyền hình trong một thế giới phẳng!
CTV và nghĩa tình Ðất Mũi
Sau thành công chương trình phối hợp Sở Giáo dục - Ðào tạo: Tiếng hát học đường, chúng tôi (Ðài), phối hợp Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phát động cuộc thi: Tìm kiếm tài năng cải lương. Sau 2 lần tổ chức thi thành công thì ký thỏa thuận với Ðài Truyền hình TP Hồ Chí Minh (HTV). CTV chịu trách nhiệm thi vòng sơ tuyển với tên gọi: Giọng ca Cải lương giải Bông Tràm. HTV vòng chung kết: Chuông Vàng vọng cổ.
Ý tưởng đó mở ra sân chơi bổ ích, duy trì, phát hiện tài năng cải lương, bộ môn nghệ thuật truyền thống của dân tộc giữa 2 đài CTV-HTV.
Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, tháng 8/2009, Ðài Phát thanh - Truyền hình Cà Mau ký kết giao ước với xã Ðất Mũi. Mục đích của giao ước giữa 2 đơn vị là: CTV phối hợp cùng với xã Ðất Mũi xây dựng, phát triển Ðất Mũi thành một xã nông thôn mới. Kết nối hệ thống giao thông nông thôn liên hoàn, tạo điều kiện cho học sinh đến trường học hành; hỗ trợ bà con nông dân xóa được đói, giảm được nghèo. CTV đã liên kết các công ty, doanh nghiệp xây dựng được 3 chiếc cầu giao thông nông thôn, cấp 20 sổ tiết kiệm trị giá 1 triệu đồng/sổ cho 20 hộ dân nghèo nuôi nghêu tại xã Ðất Mũi. Ðài Phát thanh - Truyền hình tỉnh An Giang hỗ trợ xây dựng nhà tình thương cho hộ gia đình chính sách 40 triệu đồng bằng nguồn mái ấm ATV. Cấp hàng trăm ngàn quyển tập cho học sinh nghèo vượt khó. Tổ chức thăm hỏi bà con nghèo và gia đình chính sách vui Xuân đón Tết và những ngày lễ, kỷ niệm ý nghĩa.
Tiếng hát từ công trình Khí - Ðiện - Ðạm
Cụm công trình Khí - Ðiện - Ðạm Cà Mau được khởi công vào đầu những năm 2000. Mở đầu giai đoạn chuyển mình của đất nước, đẩy mạnh phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, gia nhập WTO. Ðây là công trình trọng điểm quốc gia, đóng góp vào sự phát triển kinh tế khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Trong quá trình xây dựng, dự án huy động hàng ngàn lượt công nhân, kỹ sư, chuyên gia trong nước và quốc tế. Bây giờ là mùa khô, rừng U Minh lại nở những bông tràm. Bông tràm tỏa hương thơm ngào ngạt, thu hút đàn ong đến hút mật. Một sản vật đặc trưng của vùng rừng U Minh Hạ.
Chào đón Xuân Ất Dậu năm 2005, cũng là thời điểm đến lượt CTV đăng cai tổ chức chương trình “Âm vang miền Tây”. Tôi báo cáo và xin ý kiến anh Bùi Công Bửu, Chủ tịch UBND tỉnh, sẽ đưa chương trình đến phục vụ công nhân, lao động trên công trường Khí - Ðiện - Ðạm. Anh Sáu Bửu đồng thuận và căn dặn:
- Ðưa chương trình “Âm vang miền Tây” về phục vụ bà con vùng căn cứ kháng chiến U Minh, đồng thời gửi gắm tình cảm của Ðảng bộ, chính quyền và Nhân dân Cà Mau đối với trên 3.000 công nhân, lao động trên công trình Khí - Ðiện - Ðạm không về quê ăn Tết. Dù vất vả phải đưa xe truyền hình lưu động đến công trường bằng phà, sông nước, nhiều rủi ro... nhưng phải cố gắng đảm bảo sự an toàn, đây là tài sản lớn, mới được Trung ương đầu tư cho tỉnh.
Sân khấu được dựng lên giữa bãi đất trống tương đối bằng phẳng, vừa mới được san lấp. Ban Tổ chức chương trình mua hơn 3.000 ghế nhựa và gần 100 ghế đai cho đại biểu và công nhân cùng khán giả ngồi xem. Tất cả phải nhờ lực lượng Trại giam K1 Cái Tàu giúp đỡ.
Chiều hôm đó lại có áp thấp nhiệt đới, mưa lất phất làm cháy hư một số bóng đèn sân khấu. Nhưng niềm vui bất ngờ, khi còn 15 phút lên sóng, bỗng nhiên trời lặng gió và mưa tạnh. 20 giờ lên sóng chương trình “Âm vang miền Tây”, với chủ đề: “Tiếng hát từ công trình Khí - Ðiện - Ðạm”. Sau lời dẫn của MC là tiếng vỗ tay kéo dài, vang dội trong không gian trầm mặc của rừng U Minh Hạ. Tiếng huýt sáo, khi giới thiệu phần biểu diễn của Ca sĩ Siu Black, một giọng ca đầy nội lực, được mệnh danh là chim họa mi của núi rừng Tây Nguyên.
...Trời Tây Nguyên xanh thẳm/ Buổi sáng em lên rẫy/ Thấy bóng cây Kơ nia/ Em hỏi cây Kơ nia/ Gió mầy thổi về đâu/ Về hướng mặt trời mọc/ Uống nước nguồn miền Bắc,... (Bài hát Bóng cây Kơnia của Phan Huỳnh Ðiểu).
U Minh - Rừng tràm, Tây Nguyên - Rừng xà nu, Tây Bắc - Rừng Pác Pó có bóng cây Kơnia... Thật kỳ diệu khi “chim họa mi” hát vang giữa U Minh bát ngát hương tràm.

Liên hoan Tiếng hát Truyền hình tỉnh Cà Mau lần thứ III. Ảnh tư liệu

Liên hoan Tiếng hát Truyền hình tỉnh Cà Mau lần thứ IV. Ảnh tư liệu
Người ngàn năm
Một buổi tối tháng 9/2009, tôi xem trên VTV1, Hà Nội đang tích cực triển khai trùng tu Di tích lịch sử Hoàng thành Thăng Long, Văn miếu Quốc Tự Giám. Ðây là thời điểm Hà Nội đẹp rực rỡ sắc thu. Những con đường đầy lá vàng rơi, hương hoa sữa thoang thoảng các góc phố, mặt nước phẳng lặng của Hồ Gươm, Hồ Tây... Tôi bâng khuâng chợt nghĩ: Sắp kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội (1010-2010).
Mấy ngày sau tôi có gọi điện thoại mời Soạn giả Hà Nam Quang (Hà Mỹ Dung) đến Cà Màu, đi Ðất Mũi chơi.
Tháng 11, bây giờ là mùa khô ở Ðất Mũi, thời tiết mát mẻ, ít mưa, biển hiền hòa. Hệ sinh thái rừng ngập mặn hiện ra rõ nét bãi bồi và các loài chim biển di cư. Tôm, cá là thời điểm ngon nhất, đặc biệt là cua Cà Mau.
Cà Mau là vùng đất phù sa bồi tụ từ sông Mê Kông mang đến qua các cửa sông và gặp nhau qua vùng hải lưu của biển Ðông và vịnh Thái Lan. Theo các nhà khoa học, khoảng 300 năm trước, Ðất Mũi là vùng đầm lầy, ngập mặn, chưa có nhiều cư dân sinh sống. Quá trình bồi tụ đất tiếp tục diễn ra, mỗi năm Ðất Mũi lấn dần ra biển, nên có câu truyền tụng trong nhân gian: Ở đây đất nở, rừng biết đi và biển sinh sôi. Như một quy luật: Mắm trước, đước sau, cứ thế Mũi Cà Mau tiếp biển dài thêm.
Một căn nhà sàn bằng cây đước, đôi bạn trẻ đang tranh luận nhau tìm cách bằng sản vật địa phương như: tôm, cá, cua, hay cây đước (chang cây đước)... để làm ra sản phẩm tham dự 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội. Sau thời gian tranh luận, họ thống nhất bỏ qua những sản phẩm từ những món ăn mà nghĩ đến sản phẩm tinh thần.
Ðôi bạn ấy là Ðước và cô bạn cùng học tên Hòa, nghỉ hè kéo về nhà của Ðước ở Ðất Mũi chơi. Ban đầu bàn bạc lấy gốc đước, rồi chang đước đóng thành ghế ngồi không thành. Rồi sau đó, họ thống nhất lấy đất từ Ðất Mũi Cà Mau để nắn tượng người. Nhưng tượng người nào? Sau một phen tranh luận, họ thống nhất nắn tượng Vua Lý! Nhưng không ai biết mặt Vua Lý. Phải tìm hiểu qua sách - chỉ có sách mới lưu giữ hình ảnh, tính cách những vị vua anh minh, những anh hùng hào kiệt.
Vậy là Ðước đi tìm Vua Lý. Năm 2010, vua Lý Thái Tổ/Lý Công Uẩn quyết định dời đô từ Hoa Lư ra thành Ðại La, một vùng đất rộng lớn, màu mỡ, thuận lợi giao thông và phát triển kinh tế, và ông khẳng định Thành Ðại La là vị trí trung tâm đất nước, hội tụ linh khí, thích hợp để làm kinh đô lâu dài. Truyền thuyết kể rằng, khi thuyền Vua vừa cập bến Ðại La có rồng vàng bay lên, vì vậy ông mới đặt tên kinh đô mới là Thăng Long - Hà Nội ngày nay - Một trung tâm chính trị, văn hóa kéo dài đến ngày nay.
Ðước, ngày đêm đào đất, phơi đất, nhào nặn đất thành tượng có khi gục lên tượng đất... Thời gian thoáng qua tượng cũng hoàn thành. Tại nhà ông bà Hai Năng (cha mẹ Ðước) trong nếp nhà sàn còn có mặt ông Vững từ thành phố vừa vào cùng mấy người hàng xóm. Mỗi người ngắm nhìn một kiểu, và đặt câu hỏi ai đây? Mặt Vua mà buồn như thế này. Rồi, Vua sao không thấy cân đai, áo mão, bàn tay thì chai sần...
Ðước và Hòa ngồi lặng đi! Không khí nặng nề chầm chậm trôi qua. Mọi người lần lượt ra về. Ðước cất tiếng như khẩn cầu:
- Con nắn tượng Vua Lý qua sách và sự hiểu biết của mình với cả tấm lòng kính trọng vị Vua ân đức hết lòng vì dân, mở mang bờ cõi đất phương Nam... Từ định Thăng Long thành đến Ðất Mũi bây giờ...
Ông Vững giải bày, không ai biết mặt Vua cả ngàn năm trước mà bảo giống hay không giống. Thật vô lý! Chúng ta nên biết rằng cháu Ðước nắn tượng Vua Lý vì lòng tôn kính Vua, coi Vua như người thân của mình, gần gũi, bao dung như những người dân chài Xóm Mũi lúc này. Lấy đất từ Ðất Mũi Cà Mau nắn người ngàn năm trước đã dựng lên bờ cõi Việt Nam đến tận bây giờ là điều thiêng liêng nhất.
Vậy nên theo tôi không nên coi tượng này là tượng Vua Lý. Nên đặt và gọi tượng này là tượng: Người ngàn năm!
Ông Hai Năng, cha của Ðước, nhào tới ông chầm ông Vững, nói:
- Sao chú không nói sớm!
Lúc đó Ðước từ góc hè nhà chạy vào:
- Thật vậy không chú? và quay sang ôm chầm Hòa, rồi thốt lên: Anh mừng quá Hòa ơi!
Mọi người đồng reo lên: Người ngàn năm!
Ðó là nội dung chủ đề vở cải Lương “Người ngàn năm”, tác giả: Hà Nam Quang. Vở cải lương đạt giải Vàng Liên hoan phim Truyền hình toàn quốc năm 2010, kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội.
Chúng ta tưởng nhớ vua Lý Thái Tổ/Lý Công Uẩn, người sáng lập nhà Lý, một giai đoạn lịch sử quan trọng trong quá trình mở rộng và xây dựng đất nước. Vua Lý có những bước đi quan trọng mở mang bờ cõi đất phương Nam và đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển lâu dài của dân tộc. Một ông Vua nhân từ, thông tuệ, đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu.
Ðúng! Người ngàn năm hóa vào đất từ lâu rồi. Ðất ngàn năm thương người gửi đất. Hình thành nên gấm vóc Việt Nam!
...Ta còn gửi lửa trong than/ Gửi người trong đất/ Ðất mang tên người/ Ðất này là đất bốn phương/ Phan Ngọc Hiển sáng ngời tên anh. (Thơ Nguyễn Bá).
Lại chợt nhớ câu thơ của tướng Huỳnh Văn Nghệ: Từ thuở mang gươm đi mở cõi/ Trời Nam (nghìn năm) thương nhớ đất Thăng Long./.
Cần Thơ, 2025