CSGDĐH hiến kế để tỉ lệ người theo học các ngành STEM đạt 35% ở mỗi trình độ

Để thu hút người học các ngành STEM ở trình độ thạc sĩ, tiến sĩ cần tăng cường kết nối giữa nhà trường và doanh nghiệp ở các hoạt động đào tạo sau đại học

.t1 { max-width: 100%; }

Tháng 5/2025, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long đã ký Quyết định số 1002/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghệ cao giai đoạn 2025 - 2035 và định hướng tới năm 2045.

Quyết định nêu rõ, mục tiêu cụ thể đến năm 2030 là tăng nhanh quy mô đào tạo trình độ cao khối ngành STEM, nhất là các ngành khoa học cơ bản và các ngành liên quan tới công nghệ số, trí tuệ nhân tạo và công nghệ sinh học. Tỉ lệ người theo học các ngành STEM đạt 35% ở mỗi trình độ đào tạo.

Theo đại diện một số cơ sở giáo dục đào tạo, hiện nay số lượng người theo học trình độ sau đại học ở khối ngành STEM còn hạn chế do nhiều nguyên nhân.

Vì sao khối ngành STEM người học chưa “mặn mà” học lên thạc sĩ, tiến sĩ ?

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Trần Vũ - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ, trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra sâu rộng cùng với sự chuyển dịch mạnh mẽ sang nền kinh tế tri thức, nguồn nhân lực STEM chất lượng cao đang trở thành nhân tố then chốt, quyết định năng lực đổi mới sáng tạo và sức cạnh tranh quốc gia.

Tuy nhiên, điều quan trọng không chỉ dừng lại ở việc đào tạo đội ngũ này, mà còn là xây dựng được một hệ sinh thái toàn diện, hiệu quả để khai thác, sử dụng và phát huy tối đa giá trị của nguồn lực đó.

Vì vậy, cần nhận thức rõ sự khác biệt giữa nguồn nhân lực chất lượng cao đang được sử dụng hiệu quả, tức là có điều kiện làm việc trong các môi trường nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, sản xuất công nghệ cao và nguồn nhân lực chỉ tồn tại ở dạng tiềm năng, tức là đã qua đào tạo bài bản nhưng không có cơ hội phát triển, không được làm việc trong các điều kiện phù hợp để phát huy năng lực chuyên môn.

Nếu quá trình phát triển nguồn nhân lực chỉ dừng lại ở khâu đào tạo, mà thiếu đi các cơ chế thu hút, sử dụng và phát triển bền vững thì giá trị xã hội và quốc gia của lực lượng này sẽ bị lãng phí nghiêm trọng.

Trong giai đoạn hiện nay, với mong muốn phát triển nhanh, bền vững thì việc thúc đẩy mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo không còn là một lựa chọn mang tính khuyến nghị mà còn là một yêu cầu tất yếu. Đây chính là nền tảng để nâng cao năng suất lao động, chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh quốc gia trong dài hạn.

“Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị đã khẳng định rõ định hướng chiến lược này, coi khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là những đột phá mang tính chiến lược. Trong tiến trình ấy, nguồn nhân lực STEM chất lượng cao giữ vai trò đặc biệt quan trọng, là lực lượng nòng cốt để hiện thực hóa các mục tiêu phát triển, làm chủ công nghệ và kiến tạo mô hình tăng trưởng dựa trên tri thức”, thầy Vũ chia sẻ.

Tuy nhiên, theo thầy Vũ, một thực tế đang hiện hữu đó là tỷ trọng quy mô đào tạo sau đại học khối ngành STEM vẫn còn ở mức thấp. Tình trạng “khan hiếm” người học sau đại học trong các ngành STEM không hẳn là do ngành nghề kém hấp dẫn về bản chất mà chủ yếu bắt nguồn từ sự thiếu đồng bộ giữa nhu cầu xã hội, chính sách sử dụng nhân lực, và điều kiện đào tạo. Có thể kể đến một số nguyên nhân:

Thứ nhất, thị trường lao động hiện chưa tạo ra động lực đủ mạnh để người học theo đuổi các bậc học sau đại học. Tại Việt Nam, phần lớn các doanh nghiệp công nghệ hiện mới dừng lại ở khâu gia công hoặc lắp ráp, với mức độ đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D) còn hạn chế.

Do đó, nhu cầu tuyển dụng nhân lực trình độ thạc sĩ, tiến sĩ vẫn ở mức thấp, khiến người học khó nhận thấy giá trị gia tăng rõ rệt về nghề nghiệp khi tiếp tục học lên cao.

Thứ hai, môi trường nghiên cứu chưa đủ hấp dẫn. Nhiều cơ sở đào tạo còn thiếu các nhóm nghiên cứu mạnh, cơ sở vật chất hiện đại và cơ chế tài trợ nghiên cứu hiệu quả. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến trải nghiệm học thuật, khiến người học khó phát triển năng lực nghiên cứu một cách chuyên sâu và bền vững.

Thứ ba, áp lực kinh tế và kỳ vọng xã hội: So với các ngành kinh tế, tài chính, quản trị kinh doanh…, người học ngành STEM thường mất nhiều thời gian hơn để đạt được thu nhập cao. Điều này khiến nhiều sinh viên giỏi lựa chọn đi làm sớm, học thêm các kỹ năng ngắn hạn hoặc chuyển hướng sang các lĩnh vực dễ xin việc hơn, nhằm đáp ứng những nhu cầu thực tế của bản thân và gia đình.

Cuối cùng, thiếu chính sách khuyến khích cụ thể và dài hạn. Các chương trình học bổng, hỗ trợ tài chính còn hạn chế về quy mô và điều kiện tiếp cận. Bên cạnh đó, sự thiếu hụt các chương trình “đặt hàng đào tạo” từ phía Nhà nước và doanh nghiệp đã khiến quá trình học tập sau đại học thiếu đi sự định hướng nghề nghiệp rõ ràng và tính gắn kết với thị trường lao động.

“Vấn đề không nằm ở năng lực của người học, mà ở chỗ họ thiếu niềm tin vào cơ hội nghề nghiệp và triển vọng phát triển sau khi học lên cao. Nếu không có những thay đổi mang tính căn cơ trong chính sách sử dụng nhân lực, đầu tư cho nghiên cứu và tăng cường gắn kết giữa đào tạo với nhu cầu thực tiễn, tình trạng “kén người học” trong các ngành STEM sẽ còn tiếp tục kéo dài, ảnh hưởng trực tiếp đến chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của đất nước”, thầy Vũ chia sẻ.

 Ảnh minh họa:Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

Ảnh minh họa:Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

Còn theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lương Quang Khang - Trưởng phòng đào tạo sau đại học, Trường Đại học Mỏ - Địa chất chia sẻ, nguồn nhân lực STEM chất lượng cao có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong thời đại công nghệ 4.0. Bởi, lực lượng này không chỉ đóng vai trò đáp ứng, giải quyết các yêu cầu mới của thị trường lao động mà còn khai thác được cơ hội của cách mạng công nghiệp 4.0 để đổi mới sáng tạo, góp phần thúc đẩy kinh tế, đồng thời giải quyết các vấn đề xã hội.

Khối ngành STEM là một khối ngành quan trọng trong việc phát triển của mỗi quốc gia. Trong những năm gần đây, giáo dục đại học Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong đào tạo các ngành STEM, phản ánh xu hướng toàn cầu hóa và nhu cầu cấp thiết về nguồn nhân lực chất lượng cao, một số trường đại học cũng có các chính sách ưu đãi cho khối ngành này.

Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi vẫn còn một số thách thức. Hiện nay, đây lại là khối ngành đào tạo chưa thu hút được người học lên bậc sau đại học (thạc sĩ, tiến sĩ), bởi những yêu cầu về đào tạo sau đại học của khối ngành này được đánh giá là tương đối cao và khó khăn hơn so với ngành đào tạo khác nhưng lại chưa có nhiều chính sách đủ hấp dẫn.

Trước tiên, có thể kể đến việc thiếu định hướng cho học sinh phổ thông và thiếu sự kết nối với thị trường lao động cũng khiến tỷ lệ sinh viên theo học các lĩnh vực STEM thấp, dẫn đến người theo học sau đại học khối ngành này cũng thấp.

Bên cạnh đó, sinh viên tốt nghiệp đại học sẽ hết sức cân nhắc giữa chi phí và cơ hội của việc chọn con đường học tiếp lên trình độ thạc sĩ, tiến sĩ, so với việc lựa chọn đi làm ngay để có thu nhập, nhất là khi thiếu chế độ, chính sách học bổng phù hợp.

Ngoài ra, những người đã đi làm khi thấy thực sự có yêu cầu từ công việc (như giảng viên các trường đại học hoặc nghiên cứu viên tại viện nghiên cứu) mới chọn con đường học lên thạc sĩ, tiến sĩ. Bên cạnh đó, hiện nay những người có năng lực tốt có nhiều cơ hội nhận học bổng để lựa chọn đi học tại các trường đại học nước ngoài, nhất là ở trình độ tiến sĩ.

Cuối cùng, một trong những nguyên nhân đó là thiếu các chính sách hỗ trợ dài hạn và có tính định hướng nghề nghiệp rõ ràng từ phía nhà nước và doanh nghiệp. Hiện nay, học bổng và các chương trình hỗ trợ tài chính dành cho sinh viên sau đại học còn hạn chế cả về quy mô lẫn mức độ tiếp cận. Các suất học bổng phần lớn tập trung ở bậc đại học hoặc mang tính ngắn hạn, trong khi người học cao học và nghiên cứu sinh lại cần được hỗ trợ ổn định, lâu dài do đặc thù chương trình kéo dài, cường độ học tập và nghiên cứu cao.

Cần gia tăng việc kết nối giữa nhà trường với doanh nghiệp, đặc biệt ở bậc sau đại học

Theo Phó hiệu trưởng Trường Đại học Bách Khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, thiếu nguồn nhân lực STEM chất lượng cao sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy không chỉ trước mắt mà cả về lâu dài, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang định hướng phát triển dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Trước hết, cần nhìn nhận “thiếu” ở đây không chỉ theo nghĩa thị trường lao động hiện tại có bao nhiêu vị trí đang tuyển dụng, mà theo nghĩa rộng hơn “liệu quốc gia có đủ nhân lực trình độ cao để thực hiện các mục tiêu chiến lược về phát triển kinh tế tri thức, công nghệ cao và công nghiệp hóa hiện đại hay không?”.

Thứ hai, thiếu nhân lực STEM chất lượng cao sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực nghiên cứu, đào tạo trong các trường đại học và viện nghiên cứu. Không có đội ngũ kế cận đủ mạnh, các nhóm nghiên cứu sẽ suy yếu, năng lực đổi mới sáng tạo quốc gia sẽ bị bào mòn theo thời gian.

Thứ ba, trong khi nhiều quốc gia đang cạnh tranh quyết liệt để thu hút nhân tài STEM nhằm phát triển các ngành chiến lược như trí tuệ nhân tạo, bán dẫn, công nghệ sinh học, năng lượng sạch…, thì Việt Nam sẽ bỏ lỡ cơ hội tham gia sâu vào các chuỗi giá trị toàn cầu nếu không có lực lượng đủ năng lực để nghiên cứu, phát triển và làm chủ công nghệ.

Tóm lại, thiếu hụt nguồn nhân lực STEM chất lượng cao không đơn thuần là vấn đề giáo dục đào tạo, mà là thách thức chiến lược đối với năng lực phát triển quốc gia trong tương lai. Giải quyết được bài toán này chính là tạo nền móng cho một nền kinh tế sáng tạo, độc lập và có năng lực cạnh tranh bền vững.

Vì vậy, rất cần thêm nhiều chính sách để thu hút người theo học ở trình độ cao khối ngành STEM. Tuy nhiên, để thu hút người học theo đuổi các ngành STEM ở trình độ thạc sĩ, tiến sĩ, điều cốt lõi là phải xây dựng được hệ sinh thái nghiên cứu và đổi mới sáng tạo ở các trường đại học và các doanh nghiệp đủ sức hấp thụ và phát triển nhân lực trình độ cao.

Trước hết, cần có sự đầu tư mạnh mẽ và bền vững cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) tại các trường đại học và viện nghiên cứu, đây là những đơn vị không chỉ giữ vai trò đào tạo mà còn là nơi sử dụng chủ lực đội ngũ thạc sĩ, tiến sĩ.

Việc tăng cường ngân sách nghiên cứu, xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh, phòng thí nghiệm trọng điểm, và thiết lập cơ chế đặt hàng nghiên cứu rõ ràng từ phía nhà nước, doanh nghiệp là những giải pháp mang tính nền tảng.

Khi các cơ sở giáo dục đại học có được môi trường nghiên cứu chuyên sâu, năng động và có khả năng tạo ra ra các sản phẩm đột phá với những công bố quốc tế có giá trị thì người học sau đại học mới thực sự có điều kiện phát triển sự nghiệp một cách đúng nghĩa.

Và cần có chiến lược quốc gia nhằm thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của các doanh nghiệp khoa học – công nghệ, trung tâm đổi mới sáng tạo và các đơn vị R&D trong khối doanh nghiệp. Đây là kênh quan trọng thứ hai trong việc tiếp nhận và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực trình độ cao bên ngoài hệ thống giáo dục và nghiên cứu. Chính sách hỗ trợ cần tập trung vào các biện pháp như ưu đãi tài chính, miễn giảm thuế, tạo điều kiện thuận lợi trong tiếp cận đất đai, đồng thời đặc biệt chú trọng khuyến khích phát triển các sản phẩm mới có hàm lượng khoa học – công nghệ cao. Chỉ khi nền kinh tế có nhu cầu thật sự, người học mới sẵn sàng đầu tư vào việc học ở các trình độ cao hơn.

Đồng thời, tăng cường kết nối giữa nhà trường và doanh nghiệp ở các hoạt động đào tạo sau đại học theo hướng gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo – nghiên cứu – ứng dụng. Tạo điều kiện thuận lợi để đưa các vấn đề khoa học, công nghệ từ thực tiễn doanh nghiệp cần giải quyết vào các trường, viện để người học sau đại học sớm tiếp cận, nghiên cứu, tạo ra những giải pháp, sản phẩm có giá trị thực tế cho xã hội và tăng cơ hội việc làm cho người học.

Đặc biệt cần chú trọng đến chính sách hỗ trợ người học ở các lĩnh vực trọng điểm như STEM, đặc biệt là các chính sách hỗ trợ dài hạn như hỗ trợ học phí, tạo cơ hội đi thực tập, nghiên cứu trong và ngoài nước, hỗ trợ các dự án đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp công nghệ.

"Chỉ khi nào việc học lên cao được nhìn nhận là một con đường phát triển nghề nghiệp bền vững và có giá trị thực tiễn, người học mới chủ động lựa chọn và gắn bó lâu dài với con đường khoa học công nghệ", thầy Vũ chia sẻ.

 Ảnh minh họa. Website Trường Đại học Mỏ - Địa chất

Ảnh minh họa. Website Trường Đại học Mỏ - Địa chất

Còn theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lương Quang Khang, cần có chiến lược đầu tư trọng tâm, trọng điểm tại một số cơ sở giáo dục đại học có uy tín đào tạo các lĩnh vực STEM để tăng nhanh quy mô đào tạo nói chung và quy mô đào tạo sau đại học nói riêng. Các cơ sở giáo dục đại học cần truyền tải thông tin, cách thức thực hiện rộng rãi đến đông đảo những người đã tốt nghiệp đại học về tầm quan trọng của nguồn nhân lực chất lượng cao khối ngành này.

Bên cạnh đó, cần gia tăng việc kết nối giữa nhà trường với doanh nghiệp. Bởi nước ta có rất nhiều doanh nghiệp nhưng thực tế có rất ít doanh nghiệp thực hiện đặt hàng nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ với các trường đại học.

Vì vậy, khi các cơ sở đào tạo hợp tác, liên kết với các doanh nghiệp để cùng đẩy mạnh công tác truyền thông, hướng nghiệp, xóa bỏ định kiến giới tính trong con đường phát triển nghề nghiệp, qua đó thu hút nhiều sinh viên giỏi, tài năng đăng ký học các ngành STEM ở cả bậc đại học và sau đại học.

Ngoài ra, nhà nước cần có thêm những học bổng để hỗ trợ về mặt chi phí đào tạo, nghiên cứu cho những người học sau đại học của khối ngành STEM. Vì hiện nay, hầu như các chương trình thạc sĩ, tiến sĩ của nước ta rất ít học bổng, chỉ có một số chương trình liên kết với nước ngoài mới có học bổng, tạo động lực dẫn dắt sự dịch chuyển cơ cấu nền kinh tế và kéo theo là thị trường lao động trình độ cao, tác động tích cực trở lại đối với toàn hệ thống giáo dục đại học.

Cuối cùng, bên cạnh các chính sách của Nhà nước, các cơ sở giáo dục đại học và viện nghiên cứu lớn cũng cần chủ động xác định rõ sứ mạng, tầm nhìn, chiến lược, kế hoạch và giải pháp phù hợp để tham gia phát triển nguồn nhân lực STEM trình độ cao, đào tạo tài năng khoa học - công nghệ cho đất nước trong giai đoạn mới.

Theo dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ liên quan đến chính sách tín dụng ưu đãi dành cho học sinh, sinh viên, học viên và nghiên cứu sinh theo học các ngành khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán (STEM), sinh viên khối ngành STEM (Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật và Toán học) sẽ được vay tín dụng toàn bộ học phí và mức tối đa 5 triệu đồng/tháng cho sinh hoạt phí. Lãi suất ưu đãi bằng lãi suất cho vay đối với hộ nghèo và không cần bảo đảm tiền vay nếu dưới mức 500 triệu đồng.

Người vay có tối đa 12 tháng sau khi tốt nghiệp để bắt đầu trả nợ và thời hạn trả nợ tối đa bằng thời hạn giải ngân. Kỳ hạn trả nợ có thể được gia hạn nợ nếu người vay gặp khó khăn khách quan.

Chính sách áp dụng cho tất cả học sinh, sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh đang theo học các ngành khoa học sự sống, khoa học tự nhiên, máy tính và công nghệ thông tin, công nghệ tài chính, công nghệ kỹ thuật, kỹ thuật, kiến trúc và xây dựng, sản xuất và chế biến, toán và thống kê tại các cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp thuộc hệ thống giáo dục quốc dân.

Thu Trang

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/csgddh-hien-ke-de-ti-le-nguoi-theo-hoc-cac-nganh-stem-dat-35-o-moi-trinh-do-post252053.gd
Zalo