CSGDĐH đào tạo nhân lực đường sắt tốc độ cao, đường sắt đô thị như thế nào?

Đào tạo nhân lực đường sắt tốc độ cao và đường sắt đô thị là đòn bẩy đột phá và then chốt để giải quyết bài toán giao thông, phát triển KT-XH vùng sâu, vùng xa.

Viện Chiến lược và Phát triển Giao thông vận tải ước tính, tổng nhu cầu nhân lực trực tiếp ở các khối quản lý nhà nước, quản lý dự án, tư vấn, xây lắp, vận hành cho xây dựng, khai thác đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam cao điểm cần khoảng 200.000-250.000 lao động, gồm: nhân lực quản lý dự án (700-900 cán bộ), tư vấn (1.100-1.300 lao động), xây lắp (180.000-240.000 lao động) và giai đoạn vận hành (13.880 lao động). Đây là thách thức rất lớn khi thực trạng nguồn nhân lực ngành đường sắt hiện nay mới đáp ứng được khoảng 10%. [1]

Để hiện thực hóa mục tiêu phát triển lĩnh vực công nghiệp đường sắt tại Việt Nam (làm chủ sản xuất toa xe, đầu máy và hệ sinh thái liên quan công nghiệp đường sắt,…), nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao chuyên ngành Đường sắt tốc độ cao và đường sắt đô thị đặt ra yêu cầu lớn và cấp thiết đối với các cơ sở đào tạo đại học.

Bước vào kỷ nguyên giao thông mới

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Thân Đình Vinh - Trưởng Bộ môn Giao thông, Khoa Đô Thị, Trường Đại học Kiến trúc Hà Nộicho biết: Hiện nay, nước ta chưa có tuyến đường sắt tốc độ cao nào đi vào hoạt động. Song, dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam có chiều dài khoảng 1.560 km đang được Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương khẩn trương hoàn thiện thể chế, tổ chức triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, đảm bảo tiến độ khởi công trước ngày 31/12/2026. Trong khi đó, đối với đường sắt đô thị, Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đã có một số tuyến đi vào hoạt động như: tuyến số 2A (Cát Linh - Hà Đông), một phần tuyến số 3, Tuyến Bến Thành – Suối Tiên.

Nhằm đáp ứng với bối cảnh hiện nay, chủ trương của Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã xác định rõ cần ưu tiên phát triển đường sắt tốc độ cao và đường sắt đô thị. Thông báo số 157/TB-VPCP ngày 5/4/2025 kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính - Trưởng Ban Chỉ đạo tại Phiên họp lần thứ nhất Ban Chỉ đạo các công trình, dự án quan trọng quốc gia lĩnh vực đường sắt, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Kết luận số 49-KL/TW ngày 28/2/2023 của Bộ Chính trị và các quy hoạch phát triển giao thông vận tải đã khẳng định đường sắt là một trong những lĩnh vực vận tải cần ưu tiên đầu tư.

Đây là phương thức vận tải có nhiều ưu điểm, hài hòa giữa các phương thức vận tải (hàng không, đường thủy, hàng hải và đường bộ), vận tải khối lượng lớn, nhanh, chi phí rẻ, an toàn, bảo vệ môi trường và có khả năng kết nối rộng và xuyên quốc gia. Vì vậy, việc phát triển hệ thống đường sắt có vai trò then chốt trong phát triển kinh tế - xã hội, kết nối vùng miền và thúc đẩy hội nhập quốc tế, đặc biệt là các tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, đường sắt đô thị, đường sắt kết nối với cảng biển, khu công nghiệp, các đô thị lớn và đường sắt liên vận quốc tế.

Có thể thấy, quy mô đầu tư vào hệ thống đường sắt trong thời gian tới là rất lớn, bao gồm: dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam; đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng; các đường sắt đô thị Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh; các tuyến Lạng Sơn - Hà Nội, Hải Phòng - Hạ Long - Móng Cái;…. Đây là cơ hội để nước ta làm chủ công nghệ và phát triển sản xuất công nghiệp đường sắt.

Đề cập đến tầm quan trọng của đường sắt tốc độ cao (HSR - High-Speed Rail), Tiến sĩ Thân Đình Vinh nhận định: Đây là phương tiện vận tải nhanh, năng lực lớn, giúp kết nối các vùng kinh tế trọng điểm, giảm thời gian di chuyển giữa các khu vực. Khi có HSR, nền kinh tế vùng sẽ “nóng” lên, kích thích phát triển công nghiệp, du lịch, thương mại, bất động sản và bùng nổ thị trường lao động, vì:

Thứ nhất, giải quyết bài toán khoảng cách địa lý và phát triển vùng. Đặc điểm nước ta dài, hẹp, dân số tập trung chủ yếu ở hai cực Bắc - Nam và vùng duyên hải. Hiện thời, di chuyển bằng ô tô hay máy bay vẫn tốn thời gian, chi phí khá cao, chưa kể tắc nghẽn, sân bay quá tải. Đường sắt tốc độ cao với vận tốc 200-350 km/h sẽ rút ngắn thời gian đi lại từ Hà Nội đến Thành phố Hồ Chí Minh còn khoảng 6 giờ, cực kỳ hiệu quả, tạo ra một “hành lang phát triển” liên kết vùng mạnh mẽ.

Thứ hai, tăng cường kết nối kinh tế, xã hội. Phương tiện này giúp các vùng kinh tế trọng điểm như Hà Nội, Đà Nẵng, Hải Phòng,... kết nối nhanh, tạo điều kiện thuận lợi cho giao thương, logistics, mở rộng thị trường lao động. Đồng thời giảm khoảng cách phát triển giữa vùng trung tâm và vùng xa, thúc đẩy phát triển đa cực, tránh tập trung quá tải ở các thành phố lớn.

Thứ ba, công cụ thúc đẩy chuyển đổi số và hiện đại hóa ngành giao thông. Yêu cầu hạ tầng số hóa, tự động hóa cao giúp ngành giao thông Việt Nam “bắt kịp” xu hướng công nghệ thế giới, tạo tiền đề phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ công nghệ cao, thúc đẩy nguồn nhân lực chất lượng cao.

Thứ tư, giải pháp bền vững cho giảm phát thải khí nhà kính. Đường sắt tốc độ cao chạy điện, giảm thiểu phát thải so với máy bay, ô tô, giúp thực hiện cam kết giảm phát thải, phát triển xanh.

 Hội thảo “Ứng dụng công nghệ AI và BIM trong Hạ tầng kỹ thuật đô thị từ đào tạo đến thực tiễn”. Ảnh: Khoa Đô Thị, Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội..

Hội thảo “Ứng dụng công nghệ AI và BIM trong Hạ tầng kỹ thuật đô thị từ đào tạo đến thực tiễn”. Ảnh: Khoa Đô Thị, Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội..

Còn đối với đường sắt đô thị (MRT - Metro), đây là giải pháp hiệu quả cho giao thông đô thị, giảm tải áp lực đường bộ, ùn tắc giao thông, hạn chế ô nhiễm không khí và tiếng ồn, giúp người dân di chuyển nhanh, tiện lợi, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và năng suất lao động, hướng tới xã hội hạnh phúc.

Một là, giải quyết tình trạng tắc nghẽn và ô nhiễm đô thị.Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh có mật độ dân số cao, tắc đường đã trở thành vấn nạn, ô nhiễm không khí ngày càng trầm trọng. Đường sắt đô thị là giải pháp thiết yếu để giảm áp lực lên đường bộ, tiết kiệm thời gian di chuyển và giảm ô nhiễm.

Hai là, nâng cao chất lượng sống và hiệu quả lao động. Phương tiện giúp người dân di chuyển nhanh, giảm stress, tăng năng suất lao động và thời gian dành cho gia đình, xã hội. Hệ thống metro sạch, an toàn, đáng tin cậy và nâng cao ý thức sử dụng phương tiện công cộng.

Ba là, thúc đẩy phát triển đô thị bền vững và hiện đại. Đường sắt đô thị làm tiền đề cho phát triển các khu đô thị thông minh, tích hợp các dịch vụ công nghệ, quản lý đô thị hiện đại; tăng giá trị bất động sản và phát triển kinh tế quanh các trạm, tạo nhiều cơ hội việc làm và dịch vụ mới.

Bốn là, tăng cường năng lực vận tải hành khách đô thị. Phương tiện này có năng lực vận tải lớn, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của dân số đô thị hóa nhanh chóng, giảm tải cho các loại hình giao thông công cộng khác như xe buýt, taxi, xe máy.

Theo đó, Tiến sĩ Thân Đình Vinh nhấn mạnh, đường sắt tốc độ cao và đường sắt đô thị giữ vai trò then chốt trong hạ tầng giao thông hiện đại, về phát triển kinh tế - xã hội cùng với chuyển đổi số và xanh hóa. Bởi lẽ, đây là biểu tượng của công nghệ tiên tiến, nâng tầm hạ tầng quốc gia, thể hiện sự bắt kịp xu thế phát triển trên thế giới, giúp Việt Nam không bị tụt lại phía sau. Mặt khác, việc rút ngắn thời gian di chuyển tạo ra chuỗi giá trị đầu tư liên vùng và liên ngành, góp phần hình thành các đô thị thông minh, giảm chi phí xã hội do ùn tắc và tai nạn giao thông. Hệ thống đường sắt hiện đại tích hợp công nghệ số quản lý thông minh, vận hành hiệu quả, an toàn, thân thiện với môi trường, giảm khí thải CO2 so với phương tiện cá nhân nhằm mục tiêu phát triển bền vững.

Đa dạng việc làm, rộng mở cơ hội trước "cánh cửa" nghề nghiệp

Cùng chia sẻ về vấn đề này, Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Tiến Thành - Trưởng khoa Khoa Công trình, Trường Đại học Giao thông Vận tải cho hay, cơ sở hạ tầng giao thông là nền tảng cho sự phát triển ở các nước đang phát triển như Việt Nam. Tuy nhiên, tại một số địa phương, sự thiếu vắng các tuyến giao thông huyết mạch như đường sắt tốc độ cao gây ra rào cản phát triển dù sở hữu tiềm năng về công nghiệp khai khoáng và du lịch do cản trở giao thương.

 Ảnh minh họa: Khoa Công trình, Trường Đại học Giao thông Vận tải.

Ảnh minh họa: Khoa Công trình, Trường Đại học Giao thông Vận tải.

Chính vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, các công trình về đường sắt đô thị, đường sắt cao tốc, đường hầm tại các thành phố lớn cũng đang được định hướng xây dựng ngày càng nhiều với chi phí lên tới khoảng 40.000-50.000 tỷ đồng/năm. Ngoài ra, sau khi xây dựng cũng cần nguồn nhân lực để bảo trì hệ thống. Do đó, nhu cầu tuyển dụng đối với đội ngũ kỹ sư xây dựng công trình giao thông được đào tạo chuyên sâu, bài bản tất yếu cũng sẽ gia tăng nhằm phát triển kinh tế bền vững cho các tỉnh, thành phố nói riêng và đất nước nói chung.

Sau khi tốt nghiệp ngành Kỹ thuật xây dựng công trình giao thông, người học có thể tham gia vào các vị trí như tư vấn, thiết kế, thi công, giám sát, kiểm định hay quản lý khai thác công trình giao thông nói chung, đặc biệt là đường sắt tốc độ cao và đường sắt đô thị; cung cấp những giải pháp kỹ thuật tại các đơn vị tư vấn thiết kế, tư vấn giám sát, đơn vị thi công xây dựng và quản lý công trình giao thông cả ở trong và ngoài nước;

Bên cạnh đó, sinh viên sau khi ra trường cũng có thể tham gia nghiên cứu, giảng dạy tại các trường đại học, cao đẳng, Viện nghiên cứu trong lĩnh vực xây dựng công trình giao thông; công tác tại các cơ quan quản lý về giao thông hoặc hạ tầng giao thông vận tải; hay chinh phục thị trường lao động quốc tế. Trên thực tiễn, nhiều người tốt nghiệp ngành học này đã và đang làm tại các vị trí quan trọng ở Bộ Giao thông vận tải, lãnh đạo Sở Giao thông vận tải, lãnh đạo các tỉnh, thành phố.

Trong những năm gần đây, số lượng sinh viên tuyển sinh vào ngành Kỹ thuật xây dựng công trình giao thông của nhà trường liên tục tăng từ 10 đến 20% mỗi năm. Qua khảo sát, số lượng người học đăng kí tham gia ngành này tăng chủ yếu xuất phát từ nhu cầu của xã hội, thông tin, chính sách tuyển sinh của trường và khoa cũng như mong muốn nguyện vọng của các em về ngành nghề.

 Ảnh minh họa: Khoa Xây dựng cầu đường, Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng.

Ảnh minh họa: Khoa Xây dựng cầu đường, Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng.

Đồng tình với ý kiến trên, Tiến sĩ Cao Văn Lâm - Trưởng khoa Khoa Xây dựng cầu đường, Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng nhìn nhận, ngành Kỹ thuật xây dựng công trình giao thông hiện đang có nhiều lợi thế trong công tác đào tạo và cơ hội việc làm. Với định hướng đầu tư phát triển hạ tầng giao thông của Chính phủ nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội, nhu cầu tuyển dụng kỹ sư trong lĩnh vực này luôn ở mức cao, đặc biệt là chuyên ngành Đường sắt tốc độ cao và đường sắt đô thị.

Không chỉ trong nước, thị trường quốc tế cũng đang “khát” nhân lực xây dựng công trình giao thông. Mỗi năm, có khoảng 300–400 lượt đơn vị tuyển dụng từ nước ngoài đến trực tiếp nhà trường để tìm kiếm kỹ sư xây dựng giao thông, cho thấy sức hút mạnh mẽ của ngành trong bối cảnh hội nhập. Tuy vậy, số lượng kỹ sư tốt nghiệp vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu ngày càng tăng từ thị trường lao động.

Trường đại học tăng cường tính thực tế, thực tập, thực hành cho sinh viên

Tiến sĩ Thân Đình Vinh chia sẻ, để bắt nhịp cùng xu hướng phát triển của đất nước, khi mà “phát triển giao thông đường sắt tốc độ cao, đường sắt đô thị là nhiệm vụ then chốt tạo đột phá phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới”, thì cơ hội học tập, nghiên cứu và việc làm trong lĩnh vực này càng mở ra nhiều tiềm năng và sẽ bùng nổ trong tương lai gần.

Đáng chú ý, năm 2025, Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội phát triển chuyên ngành Đường sắt tốc độ cao và đường sắt đô thị thuộc ngành Kỹ thuật xây dựng công trình giao thông nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực chất lượng cao theo định hướng của Chính phủ và các kế hoạch đang triển khai của Bộ Xây dựng.

Khoa Kỹ thuật Hạ tầng và Môi trường đô thị, bộ môn Giao thông của Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội đã có bề dày kinh nghiệm đào tạo gần 60 năm. Theo đó, đội ngũ giảng viên của nhà trường có trình độ cao, được đào tạo bài bản từ các nước phát triển như Nhật Bản, Mỹ, Pháp, Trung Quốc,...

Không ngừng đổi mới nội dung giảng dạy, nâng cao chất lượng đào tạo và tiệm cận các chuẩn mực quốc tế, đội ngũ thầy cô nhà trường luôn nỗ lực, sáng tạo để chinh phục đỉnh cao mới trong kỷ nguyên mới về giao thông - kỷ nguyên của đường sắt tốc độ cao và đường sắt đô thị. Từ đó, người học được trang bị kiến thức nền tảng vững chắc, khả năng thích ứng với công nghệ tiên tiến và năng lực hội nhập cao.

 Hoạt động nghiên cứu khoa học sinh viên của Khoa Kỹ thuật hạ tầng và Môi trường đô thị, Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội được chú trọng để nâng cao chất lượng đào tạo gắn kết với thực tiễn xã hội. Ảnh: NTCC.

Hoạt động nghiên cứu khoa học sinh viên của Khoa Kỹ thuật hạ tầng và Môi trường đô thị, Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội được chú trọng để nâng cao chất lượng đào tạo gắn kết với thực tiễn xã hội. Ảnh: NTCC.

Theo Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Tiến Thành, chương trình đào của ngành Kỹ thuật xây dựng công trình giao thông tại Trường Đại học Giao thông vận tải cũng được Khoa cập nhật các xu hướng công nghệ 4.0 như giao thông thông minh, quản lý dữ liệu giao thông, bảo trì và khai thác công trình theo xu hướng chuyển đổi số,... nhằm giúp sinh viên tăng cường các kiến thức thực tế, thực tập và thực hành.

Khoa tiến hành nhiều khảo sát với các doanh nghiệp để tìm hiểu về yêu cầu đào tạo thực tế, những xu thế phát triển mới phù hợp với sự phát triển của công nghệ và xã hội. Đa số các học phần đều có tiết thực hành thực tế về địa hình, địa chất tại nhiều địa phương. Sinh viên được tiếp xúc trực tiếp với công trình, thực hành tại các xưởng trong nhà trường.

Khoa tổ chức các cuộc thi sáng tạo góp phần tạo ra sân chơi bổ ích sáng tạo chủ động cho các em như cuộc thi Innovative Construction (cuộc thi xây cầu mô hình) của nhà trường đã tổ chức được 5 năm và thu hút nhiều đội sinh viên trường ngoài như Trường Đại học Thủy Lợi, Trường Đại học Xây dựng Hà Nội, Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội,… cùng tham dự.

 Ảnh minh họa: Khoa Công trình, Trường Đại học Giao thông Vận tải.

Ảnh minh họa: Khoa Công trình, Trường Đại học Giao thông Vận tải.

Đối với Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng, nhiều năm liên tiếp, Khoa Xây dựng Cầu đường là đơn vị dẫn đầu nhà trường trong công tác nghiên cứu khoa học. Không chỉ tích cực tham gia triển khai các dự án thực tiễn, đội ngũ giảng viên của Khoa còn có nhiều đóng góp chuyên môn cho xã hội, đồng thời được đào tạo từ các cơ sở giáo dục từ nhiều nước trên thế giới.

Chính nhờ sự gắn bó với thực tiễn nghề nghiệp, các thầy cô tích lũy kinh nghiệm ứng dụng sâu sắc, từ đó nâng cao chất lượng giảng dạy và đào tạo. Khoa luôn tích cực đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ sinh viên trong việc tiếp cận thị trường lao động, kết nối doanh nghiệp và tìm kiếm cơ hội nghề nghiệp phù hợp.

"Để theo đuổi ngành Kỹ thuật xây dựng công trình giao thông – một lĩnh vực đòi hỏi tính chuyên môn cao và thực tế lớn, người học không chỉ cần đạt chuẩn kiến thức theo khung chương trình đào tạo, mà còn nên rèn luyện tinh thần kiên trì, chăm chỉ và có thái độ làm việc chuyên nghiệp, nghiêm túc dù ở văn phòng hay tại công trường", Tiến sĩ Cao Văn Lâm bày tỏ.

 Ảnh minh họa: Khoa Xây dựng cầu đường, Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng.

Ảnh minh họa: Khoa Xây dựng cầu đường, Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng.

Tài liệu tham khảo:

[1] https://baochinhphu.vn/khao-sat-nhu-cau-dao-tao-nguon-nhan-luc-linh-vuc-duong-sat-102250101202900742.htm

Lưu Diễm

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/csgddh-dao-tao-nhan-luc-duong-sat-toc-do-cao-duong-sat-do-thi-nhu-the-nao-post251980.gd
Zalo