CSĐT tự chủ tuyển dụng, bổ nhiệm giảng viên quốc tế kỳ vọng khơi thông nhiều điểm nghẽn lâu nay
Lãnh đạo các CSGDĐH cho biết, trước đây việc tuyển giảng viên quốc tế mất nhiều cấp phê duyệt, dễ bỏ lỡ cơ hội; nay trường được tự chủ sẽ chủ động hơn.
Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, trong đó xác định 8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm.
Đáng chú ý, ở nhóm nhiệm vụ về đổi mới thể chế, Nghị quyết nêu rõ việc hoàn thiện quy định về biên chế, tiêu chuẩn, điều kiện và quy trình tuyển dụng, bổ nhiệm giáo sư, phó giáo sư cùng các chức danh giảng viên khác phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn Việt Nam.
Trên cơ sở đó, các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp được trao quyền tự chủ trong việc tuyển dụng, thuê giảng viên và bổ nhiệm chức danh lãnh đạo, quản lý đối với người giỏi từ nước ngoài. Đây chính là điểm mở quan trọng, tạo thêm quyền quyết định cho người đứng đầu nhà trường, giúp họ linh hoạt hơn trong phát triển đội ngũ.
Nghị quyết 71 “gỡ khó” trong việc tuyển dụng, bổ nhiệm giảng viên nước ngoài
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Thái Doãn Thanh - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, việc thu hút nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là chuyên gia, giảng viên quốc tế là một trong những yếu tố then chốt để nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Việc cho phép các trường đại học tự quyết định tuyển dụng, thuê giảng viên, bổ nhiệm chức danh lãnh đạo, quản lý đối với người giỏi từ nước ngoài là một bước tiến quan trọng, tạo ra hành lang pháp lý rõ ràng để các trường thực sự phát huy quyền tự chủ.

Tiến sĩ Thái Doãn Thanh - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: Website nhà trường.
“Trước đây, chúng tôi phải trải qua nhiều cấp phê duyệt, quy trình kéo dài khiến cơ hội hợp tác với giảng viên quốc tế có khi bị bỏ lỡ. Giờ đây, khi được trao quyền quyết định nhiều hơn, nhà trường có thể chủ động đàm phán, rút ngắn thời gian ký kết hợp đồng và linh hoạt trong việc xây dựng chế độ đãi ngộ để thu hút được nhân sự chất lượng cao.
Tự chủ về nhân sự giúp nhà trường chủ động bố trí đội ngũ phù hợp với chiến lược phát triển, đồng thời mở rộng cơ hội hợp tác nghiên cứu, xây dựng chương trình đào tạo gắn với chuẩn quốc tế. Điều này không chỉ nâng cao chất lượng giảng dạy mà còn góp phần nâng tầm uy tín, vị thế của nhà trường trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam.
Trong 5 năm gần đây, nhà trường đã ký kết hợp tác với hơn 10 trường đại học và viện nghiên cứu quốc tế, mời hàng chục chuyên gia từ các quốc gia như Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, và châu Âu đến giảng dạy các học phần chuyên ngành bằng tiếng Anh, hướng dẫn sinh viên làm đồ án và tham gia các đề tài nghiên cứu chung. Hiện nay, Khoa Ngoại ngữ có 1 tiến sĩ quốc tế làm việc toàn thời gian và hơn 25 giảng viên làm việc theo hợp đồng mời giảng.
Những hoạt động này đã tạo tiền đề rất tốt: sinh viên được tiếp xúc với chuẩn mực quốc tế, cải thiện ngoại ngữ và kỹ năng học tập chủ động; giảng viên trong trường có cơ hội đồng giảng và nâng cao năng lực nghiên cứu.
Có thể nói, Nghị quyết 71 đến đúng thời điểm để tiếp thêm sức mạnh, giúp chúng tôi mở rộng quy mô và nâng tầm các chương trình đã làm rất hiệu quả trong thời gian qua”, Tiến sĩ Thái Doãn Thanh nhận định.
Đồng quan điểm trên, Tiến sĩ Cao Tấn Huy - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Tài chính - Marketing cho rằng, nếu trước đây, việc mời giảng viên nước ngoài phải qua nhiều vòng phê duyệt gắn chặt với biên chế hoặc chỉ tiêu viên chức, thì nay các trường có thể trực tiếp ký hợp đồng, thuê chuyên gia, giảng viên quốc tế theo nhu cầu chuyên môn. Điều này không chỉ rút ngắn thời gian mà còn giúp các trường linh hoạt hơn trong cạnh tranh nguồn nhân lực với các đại học trong khu vực.
Không dừng ở giảng dạy, các trường còn có thể bổ nhiệm chuyên gia quốc tế vào các vị trí lãnh đạo, quản lý như giám đốc trung tâm nghiên cứu, viện trưởng, trưởng khoa hay cố vấn học thuật. Đây được coi là cơ hội để đưa chuẩn quản trị quốc tế vào hệ thống đại học Việt Nam, đồng thời tiếp thu kinh nghiệm điều hành từ các nền giáo dục tiên tiến.
Tuy nhiên, tự chủ nhân sự cũng đồng nghĩa với trách nhiệm giải trình. Các trường phải bảo đảm chất lượng, hiệu quả và minh bạch tài chính trong việc thuê giảng viên quốc tế. Cơ chế này được xem là bước tiến quan trọng, thể hiện quyền tự chủ đại học toàn diện, không chỉ ở học thuật mà còn về nhân sự và tổ chức bộ máy.
Việc tăng quyền chủ động trong thu hút nhân lực quốc tế hứa hẹn tạo cú hích cho quá trình quốc tế hóa giáo dục đại học. Các trường có thể xây dựng chiến lược nhân sự quốc tế riêng, phát triển chương trình giảng dạy bằng tiếng Anh, mở rộng hợp tác nghiên cứu và nâng cao uy tín học thuật, xếp hạng quốc tế cũng như thương hiệu của mình.
“Mục tiêu không chỉ là thu hút giảng viên nước ngoài đến dạy ngắn hạn mà là biến môi trường đại học Việt Nam thành điểm đến hấp dẫn để họ gắn bó lâu dài, đồng hành cùng sự phát triển của nhà trường”, Tiến sĩ Cao Tấn Huy nhận định.
Trước khi có Nghị quyết 71, tuyển dụng giảng viên quốc tế vẫn còn nhiều vướng mắc
Nhìn từ thực tiễn, Tiến sĩ Cao Tấn Huy cho biết, thông thường, quy trình tuyển dụng giảng viên quốc tế tại các trường đại học Việt Nam, trong đó có Trường Đại học Tài chính - Marketing được triển khai theo năm bước cơ bản.
Trước hết, các khoa, bộ môn xác định nhu cầu và vị trí giảng dạy, trình Ban Giám hiệu phê duyệt kế hoạch, chỉ tiêu. Tiếp đó, trường đăng tải thông báo tuyển dụng trên website, mạng lưới hợp tác quốc tế hoặc gửi lời mời trực tiếp tới chuyên gia có uy tín, trường đối tác.
Bước tiếp theo, ứng viên nộp hồ sơ gồm sơ yếu lý lịch học thuật, bằng cấp, công bố khoa học và thư giới thiệu. Nhà trường sẽ tiến hành kiểm tra, đồng thời thực hiện các thủ tục pháp lý liên quan đến giấy phép và visa lao động theo quy định. Sau khâu đàm phán, hợp đồng được ký kết có thể theo hình thức toàn thời gian, bán thời gian hoặc ngắn hạn (từ 3 đến 6 tháng), dài hạn (từ 1 đến 3 năm) tùy thỏa thuận, song vẫn tuân thủ luật pháp Việt Nam.
Cuối cùng, giảng viên quốc tế được bố trí, phân công giảng dạy, tham gia nghiên cứu, hướng dẫn học viên cao học, nghiên cứu sinh và hưởng các chế độ hỗ trợ theo quy định trong hợp đồng.

Tiến sĩ Cao Tấn Huy - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Tài chính - Marketing. Ảnh: NVCC.
Tuy nhiên, quá trình tuyển dụng và sử dụng giảng viên quốc tế tại các trường đại học Việt Nam hiện nay vẫn đối mặt với nhiều rào cản.
“Vướng mắc lớn nhất nằm ở thủ tục pháp lý và hành chính. Để được giảng dạy hợp pháp, giảng viên nước ngoài phải trải qua nhiều khâu xin giấy phép lao động. Các loại giấy tờ này thường chỉ có thời hạn ngắn từ một đến hai năm nên buộc phải gia hạn liên tục.
Bên cạnh đó, các văn bằng, chứng chỉ do nước ngoài cấp muốn được công nhận ở Việt Nam phải dịch thuật, công chứng và nộp lên Cục Quản lý chất lượng (Bộ Giáo dục và Đào tạo) để thẩm định, một quy trình vốn mất nhiều thời gian mới hoàn tất.
Thêm vào đó, cơ chế hợp đồng cũng chưa thực sự phù hợp. Hiện Việt Nam chưa có quy định riêng dành cho các hình thức visiting professor (giáo sư/chuyên gia thỉnh giảng) hay giảng viên mời quốc tế, vì vậy nhiều trường buộc phải áp dụng chung khung của viên chức, vừa thiếu linh hoạt vừa khiến thủ tục thêm rườm rà.
Không chỉ dừng lại ở pháp lý, chế độ đãi ngộ cũng là một trở ngại đáng kể. Mức lương chi trả cho giảng viên ở Việt Nam hiện vẫn thấp so với mặt bằng chung trong khu vực. Điều này khiến nhiều ứng viên tiềm năng lựa chọn cơ hội tại những quốc gia có chính sách hấp dẫn và minh bạch hơn.
Mặt khác, điều kiện về hạ tầng nghiên cứu và môi trường học thuật tại nhiều trường đại học Việt Nam cũng chưa thực sự đáp ứng kỳ vọng. Việc thiếu phòng thí nghiệm đạt chuẩn quốc tế, nguồn dữ liệu nghiên cứu cùng với cơ hội hợp tác và hội nhập học thuật quốc tế còn ít, càng làm giảm sức hút đối với giảng viên, nhà khoa học giỏi từ nước ngoài”, Tiến sĩ Cao Tấn Huy cho hay.
Cùng bàn về vấn đề này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phùng Trung Nghĩa - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông (Đại học Thái Nguyên) bày tỏ, việc có các giảng viên, nhà khoa học quốc tế tham gia giảng dạy và nghiên cứu sẽ giúp nâng cao chất lượng đào tạo, gia tăng công bố khoa học, đồng thời mở ra nhiều hướng hợp tác quốc tế thiết thực cho sinh viên và giảng viên.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phùng Trung Nghĩa - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông (Đại học Thái Nguyên). Ảnh: Website nhà trường.
“Hiện tại, nhà trường đã mời nhiều chuyên gia, giảng viên quốc tế tham gia giảng dạy các chương trình đào tạo liên kết quốc tế, hợp tác nghiên cứu khoa học, đặc biệt với các chương trình hợp tác với các đối tác Hàn Quốc.
Việc mời giảng viên và nhà khoa học quốc tế vào làm việc tại trường chủ yếu diễn ra theo hai hình thức gồm: ký hợp đồng ngắn hạn hoặc theo dự án nghiên cứu, và hợp tác thông qua các chương trình liên kết đào tạo, trao đổi học thuật.
Tuy nhiên, quá trình này vẫn gặp nhiều rào cản. Về pháp lý, thủ tục hồ sơ, visa, giấy phép lao động còn khá phức tạp, thời gian xử lý kéo dài. Về chế độ đãi ngộ, mức lương và phúc lợi tại các trường công lập khó có thể cạnh tranh với những đại học hàng đầu trong khu vực. Ngoài ra, khác biệt văn hóa, ngôn ngữ cùng điều kiện sinh hoạt và hệ sinh thái học thuật chưa thật sự thuận lợi cũng khiến không ít chuyên gia quốc tế còn e ngại khi lựa chọn Việt Nam.
Chúng tôi kỳ vọng sẽ khai thác triệt để và hiệu quả hơn nữa nguồn chuyên gia, giảng viên giỏi từ nước ngoài trong thời gian tới”, thầy Nghĩa cho biết.
Chú trọng chất lượng nghiên cứu, công bố khoa học khi tuyển dụng giảng viên quốc tế
Cũng theo thầy Nghĩa, các tiêu chí đánh giá giảng viên quốc tế về cơ bản vẫn tương đồng với giảng viên trong nước, tập trung vào trình độ học thuật, năng lực nghiên cứu và hiệu quả giảng dạy.
Tuy nhiên, điểm nhấn của đội ngũ này nằm ở những yêu cầu mang tính quốc tế. Đó là kinh nghiệm quốc tế và khả năng tham gia vào các mạng lưới nghiên cứu xuyên biên giới; năng lực giảng dạy song ngữ, đặc biệt là tiếng Anh để đáp ứng nhu cầu đào tạo hội nhập.
Cùng với đó là những đóng góp thiết thực cho hợp tác quốc tế, chuyển giao tri thức và xây dựng chương trình đào tạo theo chuẩn khu vực và thế giới. Chính những yếu tố này tạo nên sự khác biệt, đồng thời quyết định sức hút của các trường đại học trong quá trình quốc tế hóa.
Việc thu hút và sử dụng đội ngũ nhân lực chất lượng cao, nhất là chuyên gia và giảng viên quốc tế, có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển của nhà trường. Đây không chỉ là cơ hội tiếp nhận tri thức mới, phương pháp đào tạo hiện đại mà còn góp phần tạo môi trường học thuật đa dạng, thúc đẩy hội nhập quốc tế.
Còn tại Trường Đại học Tài chính - Marketing, Tiến sĩ Cao Tấn Huy cho biết, về tổng thể, tiêu chí đánh giá giảng viên quốc tế vẫn có nhiều điểm tương đồng với giảng viên trong nước.
Trước hết, nhà trường đặc biệt chú trọng đến trình độ chuyên môn của giảng viên, thể hiện qua bằng cấp, chuyên ngành đào tạo và kinh nghiệm giảng dạy thực tiễn. Tiếp đến là kinh nghiệm nghiên cứu, được đánh giá qua số lượng và chất lượng các công bố khoa học trên những tạp chí, hội thảo uy tín, cũng như mức độ tham gia vào các đề tài và dự án nghiên cứu.
Bên cạnh đó, những đóng góp cho nhà trường từ việc hướng dẫn sinh viên, tham gia hoạt động chuyên môn cho đến phục vụ cộng đồng đều là những khía cạnh quan trọng. Song song, phẩm chất nghề nghiệp như đạo đức, tác phong chuẩn mực và tinh thần hợp tác cũng được xem là tiêu chí cốt lõi để bảo đảm chất lượng và uy tín của đội ngũ giảng viên.

Sinh viên và giảng viên Trường Đại học Tài chính - Marketing. Ảnh: Website nhà trường.
Tuy nhiên, điểm khác biệt là ở chỗ đối với giảng viên quốc tế, các tiêu chí này thường được đặt ra với chuẩn mực cao hơn và phạm vi rộng hơn. Về học thuật và nghiên cứu, họ được kỳ vọng sở hữu hồ sơ công bố quốc tế nổi bật, với số lượng và chất lượng bài báo Scopus vượt trội so với mặt bằng chung trong nước.
Kinh nghiệm tham gia các dự án nghiên cứu xuyên quốc gia, đóng góp vào hoạt động sở hữu trí tuệ, đăng ký sáng chế hay chuyển giao công nghệ cũng là yếu tố quan trọng bởi nó phản ánh năng lực hội nhập và khả năng đưa tri thức ra ngoài phạm vi học thuật để phục vụ thực tiễn.
Ở khía cạnh giảng dạy, ngôn ngữ trở thành tiêu chí bắt buộc. Giảng viên quốc tế có khả năng giảng dạy bằng tiếng Anh hoặc song ngữ, không chỉ để phục vụ sinh viên trong nước mà còn nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của sinh viên quốc tế theo học tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, phương pháp giảng dạy hiện đại theo chuẩn quốc tế, lấy người học làm trung tâm, áp dụng mô hình blended learning (kết hợp trực tiếp và trực tuyến) hay project-based learning (dạy học dựa trên dự án) được xem là thước đo quan trọng để đánh giá năng lực sư phạm. Đây là điểm khác biệt lớn so với nhiều giảng viên trong nước vốn vẫn quen với lối dạy truyền thống thiên về thuyết giảng.
Một khía cạnh khác không thể bỏ qua là mức độ đóng góp của giảng viên quốc tế vào tiến trình quốc tế hóa nhà trường. Họ không chỉ mang lại kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm giảng dạy mà còn là cầu nối mở rộng hợp tác học thuật, kết nối các mạng lưới nghiên cứu toàn cầu, xây dựng chương trình liên kết hoặc trao đổi sinh viên.
Nhiều trường còn đặt kỳ vọng giảng viên quốc tế tham gia quảng bá hình ảnh, góp phần nâng thứ hạng quốc tế và tăng cường thương hiệu học thuật của trường đại học trên bản đồ giáo dục toàn cầu. Điều này cho thấy, bên cạnh vai trò truyền thống là giảng dạy và nghiên cứu, giảng viên quốc tế ngày nay còn gắn với sứ mệnh chiến lược trong quá trình hội nhập và nâng cao năng lực cạnh tranh của giáo dục đại học Việt Nam.

Sinh viên Trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh thực hành tại xưởng máy của trường. Ảnh: Website nhà trường.
Còn Tiến sĩ Thái Doãn Thanh - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Công thương Thành phố Hồ Chí Minh cho hay, việc đánh giá giảng viên quốc tế của trường vẫn bám sát các tiêu chí chung do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Cụ thể, ứng viên phải đáp ứng chuẩn về bằng cấp, có kinh nghiệm giảng dạy phù hợp và chứng minh được năng lực đóng góp trong nghiên cứu khoa học.
Tuy nhiên, nhà trường đặc biệt quan tâm đến khả năng giảng dạy bằng tiếng Anh, hồ sơ công bố quốc tế trên các tạp chí uy tín thuộc hệ thống Scopus hoặc WoS, cũng như kinh nghiệm làm việc tại các trường đại học có thứ hạng tốt trong khu vực hoặc trên thế giới. Những yếu tố này đảm bảo sinh viên không chỉ được học kiến thức mới mà còn được tiếp cận với phương pháp sư phạm hiện đại, rèn luyện kỹ năng phản biện, kỹ năng thảo luận bằng ngoại ngữ.
“Chúng tôi đánh giá cao khả năng kết nối học thuật mà giảng viên quốc tế mang lại. Họ thường là cầu nối giúp nhà trường mở rộng hợp tác nghiên cứu, tham gia các dự án quốc tế, đồng hướng dẫn luận văn và đưa sinh viên đến với những sân chơi học thuật toàn cầu. Một giảng viên quốc tế giỏi không chỉ dừng ở việc dạy một học phần mà còn có thể mở ra cơ hội trao đổi sinh viên, hợp tác đào tạo 2+2 hoặc đồng xây dựng chương trình mới phù hợp chuẩn quốc tế.
Chúng tôi cũng chú trọng đến yếu tố mềm như khả năng hòa nhập văn hóa và làm việc nhóm. Giảng viên quốc tế cần sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm, hợp tác chặt chẽ với giảng viên trong nước, hỗ trợ giảng viên trẻ nâng cao năng lực nghiên cứu. Đây là cách nhà trường biến mối quan hệ hợp tác quốc tế trở thành quá trình học hỏi hai chiều, vừa nâng cao chuẩn học thuật, vừa phát triển năng lực nội tại của đội ngũ trong trường”, thầy Thanh thông tin.