Công nghiệp văn hóa Việt Nam đang 'lên dây cót'
Nhiều quốc gia đã biến công nghiệp văn hóa thành ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp lớn vào GDP.
Trong hai ngày 9 và 10-8, Hà Nội trở thành tâm điểm của đời sống âm nhạc cả nước khi liên tiếp diễn ra ba sự kiện lớn. “V Concert - Rạng rỡ Việt Nam” và “V Fest - Thanh xuân rực rỡ” do Đài Truyền hình Việt Nam tổ chức tại Trung tâm Triển lãm Việt Nam (Đông Anh), mang đến bầu không khí trẻ trung, hiện đại và sôi động. Còn tại sân vận động quốc gia Mỹ Đình, chương trình “Tổ quốc trong tim” do báo Nhân Dân và UBND TP Hà Nội phối hợp thực hiện lại đưa khán giả vào một không gian nghệ thuật sâu lắng, tràn đầy niềm tự hào dân tộc.
Còn tại TP.HCM, ngày 9-8 cũng diễn ra chương trình nghệ thuật chính luận “Dưới cờ vinh quang” do Quân ủy Trung ương - Bộ Quốc phòng phối hợp với Thành ủy Hà Nội, Thành ủy Huế, Thành ủy TP.HCM tổ chức.
Bốn đêm diễn, bốn phong cách, bốn cung bậc cảm xúc khác nhau từ những bản pop, EDM sôi động, ánh sáng rực rỡ đến những giai điệu trữ tình, hùng ca thiêng liêng đã cùng tạo nên một “làn sóng” văn hóa đặc biệt. Gần 100.000 khán giả đã trực tiếp có mặt để xem và cổ vũ, chưa kể hàng triệu lượt theo dõi qua sóng truyền hình và nền tảng số.
Trước đó nữa, chuỗi concert kéo dài từ năm 2024 đến 2025 của “Anh trai vượt ngàn chông gai” và “Anh trai say hi” cũng kéo được lượng lớn khán giả đến với mỗi đêm diễn.
Điểm đáng chú ý là dù ở thể loại nào, các chương trình đều đạt mức đầu tư công phu, từ ý tưởng nghệ thuật, dàn dựng sân khấu, hệ thống âm thanh, ánh sáng cho tới khâu điều phối lượng khán giả khổng lồ. Sự kiện được tổ chức trật tự, an toàn, cho thấy năng lực vận hành của các đơn vị tổ chức trong nước đã tiến gần với tiêu chuẩn quốc tế.
Ở góc nhìn công nghiệp văn hóa, chuỗi sự kiện này giống như một minh chứng sống động: Việt Nam hoàn toàn có tiềm lực để sản xuất và vận hành các chương trình biểu diễn quy mô lớn. Đây không chỉ là sản phẩm giải trí đơn thuần, mà là những “sản phẩm văn hóa” có khả năng tạo hiệu ứng xã hội, nuôi dưỡng bản sắc, đồng thời mở ra cơ hội phát triển kinh tế từ nghệ thuật.
Nhiều quốc gia đã biến công nghiệp văn hóa thành ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp lớn vào GDP. Việt Nam, với lợi thế về di sản, nhân lực sáng tạo và thị trường khán giả đông đảo, hoàn toàn có thể làm được điều đó, miễn là có chiến lược dài hạn, cơ chế hỗ trợ phù hợp và sự kết hợp giữa nghệ sĩ, doanh nghiệp cùng nhà quản lý.
Chỉ mới cách đây hai năm thôi, rất nhiều người Việt còn ngỡ ngàng với cơn sốt màu hồng BlackPink đến từ Hàn Quốc. Rất nhiều người không tin và không lý giải được tại sao lại có đến hàng chục ngàn người đến sân Mỹ Đình để xem các cô gái xinh đẹp vừa nhảy vừa hát trên sân khấu.
Thế rồi hàng loạt concert đã liên tục diễn ra, thu hút hàng trăm ngàn lượt khán giả, ta thấy rõ: Công chúng Việt Nam không hề thờ ơ với nghệ thuật. Chỉ cần nội dung hấp dẫn và tổ chức chuyên nghiệp, khán giả sẽ sẵn sàng đến, xem, hòa mình và lan tỏa. Khát khao ấy chính là “mỏ vàng” của công nghiệp văn hóa và vấn đề là chúng ta có đủ quyết tâm để khai thác hay không.
Bởi suy cho cùng, công nghiệp văn hóa không chỉ là những con số “cháy vé” hay hàng chục ngàn người đổ về một sân khấu. Đó còn là sức mạnh mềm để quảng bá hình ảnh Việt Nam, nuôi dưỡng lòng tự hào dân tộc và đưa nghệ thuật Việt ra thế giới bằng chính câu chuyện, giai điệu và cảm xúc của chúng ta.