Công nghiệp quốc phòng Việt Nam: Tự chủ, tự lực, lưỡng dụng, hiện đại - Bài 4: Trọng dụng nhân tài, phát triển nhân lực chất lượng cao (Tiếp theo và hết)
Từ những ngày đầu gian khó với xưởng quân giới sơ khai giữa khói lửa kháng chiến, đến nay, ngành công nghiệp quốc phòng (CNQP) Việt Nam đã vươn mình trở thành lực lượng nòng cốt trong thiết kế, chế tạo vũ khí hiện đại. Góp phần làm nên bước chuyển đó là chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài được các đơn vị trực thuộc Tổng cục CNQP đặc biệt coi trọng. Đây chính là nền tảng vững chắc để xây dựng nền CNQP Việt Nam hiện đại, tự chủ, tự lực, lưỡng dụng, đáp ứng tốt yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Tiếp nối truyền thống chiêu hiền đãi sĩ
Năm 1946, giữa Paris hoa lệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gặp kỹ sư trẻ Phạm Quang Lễ, người đang có công việc ổn định, gia đình hạnh phúc và cuộc sống sung túc ở châu Âu. Chỉ bằng tấm lòng vì nước, vì dân, Bác Hồ đã thuyết phục người trí thức uyên bác từ bỏ cuộc sống nhung lụa để trở về phục vụ cách mạng, xây dựng Quân đội. Trở về Tổ quốc, kỹ sư Phạm Quang Lễ được Bác Hồ đặt tên mới là Trần Đại Nghĩa, được Người giao trọng trách xây dựng ngành quân giới Việt Nam.

Cán bộ Nhà máy Z117, Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng kiểm tra, hướng dẫn công nhân thực hiện các chi tiết phức tạp trên sản phẩm quốc phòng. Ảnh: MAI PHƯƠNG
Xuất phát điểm của ngành quân giới Việt Nam “tất cả đều là con số 0”, đồng chí Trần Đại Nghĩa đã cùng các cộng sự tạo nên những kỳ tích phi thường: Nghiên cứu, chế tạo và sản xuất nhiều loại vũ khí, khí tài thiết yếu. Nổi bật là: Bazooka Việt Nam (súng chống tăng); súng không giật SKZ cỡ 60mm xuyên bê tông 60cm... Những vũ khí ấy góp phần quan trọng làm nên những chiến thắng vang dội của quân và dân ta trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ, mang lại độc lập cho dân tộc, thống nhất nước nhà. Không chỉ nghiên cứu, chế tạo, là “cha đẻ” của ngành quân giới Việt Nam, đồng chí Trần Đại Nghĩa còn noi gương Bác Hồ, miệt mài tìm kiếm nhân tài để phục vụ cách mạng. Từ nền móng ấy, truyền thống chiêu hiền đãi sĩ trở thành truyền thống quý báu, nổi bật nhất, xuyên suốt lịch sử phát triển của ngành quân giới-CNQP.
Tiếp nối truyền thống chiêu hiền đãi sĩ, ngày nay, cùng với sự thay đổi của xã hội, các đơn vị trực thuộc Tổng cục CNQP có nhiều cách làm mới, sáng tạo. Tại Nhà máy Z183 (Công ty TNHH MTV Cơ khí 83), để giữ chân người giỏi, bên cạnh chính sách lương thưởng, lãnh đạo Nhà máy còn có những sự quan tâm lớn tới việc ổn định cuộc sống gia đình của mỗi thành viên.
Đại tá Bùi Văn Lương, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Công ty, chia sẻ: “Khi tuyển người giỏi, chúng tôi luôn quan tâm đến điều kiện, hoàn cảnh. Nếu ai đã có vợ hoặc người yêu đang phải làm việc ở nơi xa, Nhà máy tìm cách tạo việc làm cho cả hai. Người lao động yên tâm "tề gia" mới toàn tâm cho công việc”.
Trung tá Trần Minh Tuyên, Trưởng phòng Kế hoạch kinh doanh của đơn vị là một ví dụ. Quê ở Quảng Trị, khi nộp hồ sơ, anh được lãnh đạo Nhà máy quan tâm, nắm bắt cụ thể hoàn cảnh gia đình. Biết Tuyên có người yêu ở quê, lãnh đạo Nhà máy thu xếp để bạn gái anh về làm việc cùng. Giờ đây, Thượng úy QNCN Trần Thị Mỹ Hạnh, nhân viên Phòng Nghiên cứu phát triển Nhà máy vừa là vợ, vừa là đồng nghiệp với anh Tuyên. Nhờ sự thấu hiểu ấy, Trung tá Trần Minh Tuyên toàn tâm, toàn ý gắn bó với đơn vị, có nhiều cống hiến quan trọng, giành hàng loạt thành tích cao trong quá trình công tác. Thời gian qua, Trung tá Trần Minh Tuyên được tặng các danh hiệu như: Chiến sĩ thi đua toàn quân năm 2020; Gương mặt trẻ tiêu biểu toàn quân năm 2021; đồng thời đoạt nhiều Giải thưởng Tuổi trẻ sáng tạo, giải nhì “Sáng tạo kỹ thuật toàn quốc”...
Nhà máy Z183 có nhiều câu chuyện tương tự như vậy. Thượng tá Nguyễn Như Lương (Quản đốc Phân xưởng A5) có vợ là Trung tá Nguyễn Thị Hồng Thơm (Phó chủ nhiệm Chính trị). Thượng úy Nguyễn Đức Hưng (Trợ lý Phòng Nghiên cứu phát triển) cũng được tạo điều kiện để vợ anh, chị Nguyễn Lê Gia Hân về làm việc tại Nhà máy. Chính những chính sách nhân văn ấy giúp Nhà máy xây dựng được đội ngũ cán bộ, kỹ sư, người lao động chất lượng cao, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, đồng thời phát triển kinh tế trong thời bình.
Không dừng ở việc tuyển dụng, các nhà máy thuộc Tổng cục CNQP còn quan tâm đào tạo lâu dài, cử cán bộ đi học nâng cao, khuyến khích tham gia nghiên cứu khoa học. Nhờ đó, lớp cán bộ trẻ trong Tổng cục hiện nay không chỉ giỏi tay nghề mà còn có tư duy đổi mới, làm chủ nhiều công nghệ khó.
Nhìn xa để có đội ngũ đầu ngành
Cách mạng công nghiệp 4.0 manh nha từ thập niên 2000, khi khái niệm này còn xa lạ với nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Nhưng tại Nhà máy Z173 (Công ty TNHH MTV Đóng tàu Hồng Hà), lãnh đạo Nhà máy đã sớm nhận ra vai trò then chốt của khoa học-công nghệ. Từ năm 2005, hàng loạt chủ trương ứng dụng công nghệ hiện đại được triển khai. Nhờ đó, đến khi công nghệ 4.0 bùng nổ, Z173 đã có nền tảng vững chắc, sở hữu đội ngũ kỹ sư trình độ cao và sản phẩm xuất khẩu đầu tiên của ngành đóng tàu quốc phòng.
Đại tá Nguyễn Biên Thùy, Phó giám đốc phụ trách kỹ thuật Nhà máy Z173 cho biết: “Chiến lược tới đây của chúng tôi là hợp tác sâu với các học viện, trường đại học uy tín trong và ngoài Quân đội để đào tạo kỹ thuật viên trẻ, thu hút nhân tài, tạo nguồn nhân lực kế thừa truyền thống và phát triển Nhà máy”.

Áo giáp chống đạn do Nhà máy Z117 thiết kế và sản xuất. Ảnh: MINH PHONG
Tại Viện Vũ khí, Tổng cục CNQP, Đảng ủy, chỉ huy Viện luôn chú trọng xây dựng lực lượng chuyên gia đầu ngành. Để đạt được mục tiêu ấy, Viện kết hợp nhiều hình thức đào tạo: Gắn nghiên cứu khoa học với sản xuất, đào tạo sau đại học, cử cán bộ đi học ở nước ngoài. Đại tá, Tiến sĩ Nguyễn Phúc Linh, Viện trưởng Viện Vũ khí khẳng định: “Chúng tôi mạnh dạn giao việc quan trọng cho cán bộ trẻ, tạo môi trường để họ trưởng thành nhanh. Đồng thời, khen thưởng kịp thời, khuyến khích sáng tạo”.
Nhờ cách làm này, Viện Vũ khí đã hình thành các nhóm nghiên cứu mạnh, làm chủ thiết kế và chế tạo nhiều loại vũ khí mới, từng bước tạo đột phá về khả năng tự chủ, đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa Quân đội.
Hay như ở Viện Thiết kế tàu quân sự, lĩnh vực khoa học đa ngành (cơ khí, điện, vũ khí, tự động hóa...), vấn đề chất lượng nguồn nhân lực có vai trò đặc biệt quan trọng. Với nhận thức đó, Đảng ủy, chỉ huy Viện đặt ra mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ có cơ cấu hợp lý, đồng bộ về chuyên ngành, chuẩn hóa về trình độ chuyên môn, có năng lực, trí tuệ, đủ khả năng nghiên cứu, thực hiện các đề tài, dự án khoa học, công nghệ. Thực hiện mục tiêu đó, Viện thường xuyên rà soát, nắm chắc thực trạng đội ngũ cán bộ; chủ động xây dựng quy hoạch, kế hoạch tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng. Theo Đại tá, Tiến sĩ Phạm Quang Chiến, Viện trưởng Viện Thiết kế tàu quân sự, những năm qua, Viện thực hiện đa dạng hình thức tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng; luân phiên cử cán bộ đi đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ ở trong và ngoài nước, nhất là chuyên ngành chuyên sâu, đặc thù, phù hợp với chức năng, định hướng phát triển nhiệm vụ. Cùng với đó, thường xuyên tổ chức hội thảo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức chuyên môn, phổ biến kinh nghiệm thiết kế tàu, trang thiết bị trên tàu. Viện còn cử cán bộ đi thực tế ở nhà máy và tham gia các dự án đóng tàu trong nước; tham dự triển lãm quốc tế; khảo sát, đàm phán, nhận chuyển giao công nghệ của nước ngoài ở một số lĩnh vực chuyên môn sâu trong thiết kế tàu quân sự.
Nhận thức rõ vai trò quyết định của nguồn nhân lực, Nhà máy Z115 cũng luôn bám sát yêu cầu, quy định của trên và thực tiễn hoạt động, làm tốt công tác tạo nguồn, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng theo phương châm công khai, minh bạch, lấy tiêu chí về ngành nghề, trình độ, phẩm chất đạo đức làm yếu tố cốt lõi. Đồng thời, chủ động liên hệ với các cơ sở đào tạo để có cơ chế thu hút, tuyển chọn nhân lực phù hợp với nhu cầu; chú trọng các ngành nghề còn thiếu, như chuyên sâu về bảo vệ bề mặt kim loại, lĩnh vực tự động hóa. Hằng năm, Nhà máy chủ động huấn luyện, bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo lại nhằm củng cố, nâng cao tay nghề, chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, công nhân viên, người lao động.
Về vấn đề trọng dụng nhân tài, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, Trung tướng, Tiến sĩ Hồ Quang Tuấn, Chủ nhiệm Tổng cục CNQP cho biết, những năm gần đây, đội ngũ cán bộ nghiên cứu, cán bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ, công nhân lành nghề chuyên ngành đặc thù CNQP tăng mạnh về số lượng và chất lượng, bước đầu làm chủ được các công nghệ mới, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật. Tuy nhiên, vẫn thiếu những kỹ sư giỏi, chuyên gia đầu ngành và chưa có các tổng công trình sư trong các lĩnh vực vũ khí công nghệ cao. Công tác thu hút nhân tài vào làm việc trong ngành CNQP có bước phát triển, nhưng chưa được như mong muốn. Đây là một điểm nghẽn cản trở quá trình làm chủ thiết kế-công nghệ liên quan tới vũ khí công nghệ cao và khả năng đóng góp của CNQP trong triển khai cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở nước ta. Do đó, ngoài các chế độ hỗ trợ hiện có, Nhà nước cần nghiên cứu ban hành chính sách, chế độ nhằm thu hút, đãi ngộ những người có trình độ, tay nghề cao và những người tham gia vào các dự án, công trình, nhiệm vụ đặc biệt. Trong thời gian tới, cần tập trung đổi mới mạnh mẽ các chế độ, chính sách có liên quan, trong đó ưu tiên đồng bộ cả hai yếu tố: Đãi ngộ và trọng dụng nhân tài. Đặc biệt, cùng với việc tôn vinh, động viên, khen thưởng, còn phải tin cậy và giao nhiệm vụ xứng tầm, có định hướng chiến lược và cơ chế bảo đảm nguồn lực ổn định, dài hạn để các nhà khoa học tâm huyết, gắn bó với sự nghiệp CNQP.
Nhìn lại chặng đường 80 năm, có thể thấy sức mạnh lớn nhất của ngành CNQP Việt Nam đến từ những bộ óc tài năng, những con người tận hiến. Từ tấm gương chiêu hiền của Bác Hồ, của Giáo sư-Viện sĩ Trần Đại Nghĩa đến các chính sách hiện đại tại các nhà máy, viện nghiên cứu hôm nay, tất cả đều cho thấy một chân lý: Nhân tài là trụ cột của mọi thành công.
Trong bối cảnh thế giới biến động, cạnh tranh công nghệ ngày càng khốc liệt, việc trọng dụng và phát triển nhân lực chất lượng cao càng trở nên cấp bách. Ngành CNQP Việt Nam đang tiếp nối truyền thống trọng dụng nhân tài bằng những chiến lược dài hơi-đào tạo nhân tài trẻ, đầu tư vào khoa học-công nghệ, hợp tác với các viện, trường trong và ngoài nước. Đó là cách để ngành không chỉ giữ vững vị thế trong nước mà còn vươn tầm khu vực, tiến tới làm chủ công nghệ hiện đại, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.