Công nghiệp hỗ trợ Chính sách đã có, doanh nghiệp vẫn khó
Hệ thống chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ đã khá đầy đủ, song DN Việt Nam vẫn chật vật trước vốn, công nghệ và quản trị. Trong bối cảnh chuỗi cung ứng toàn cầu dịch chuyển, cơ hội mở ra, nhưng chỉ những đơn vị đủ bản lĩnh mới nắm bắt thành công.

Khách tham quan gian hàng quảng bá sản phẩm của doanh nghiệp tại Hội chợ triển lãm công nghiệp hỗ trợ Hà Nội 2025. Ảnh: Nguyên Trang
Rào cản nào kìm hãm doanh nghiệp?
Tại Hội thảo “Chuỗi cung ứng nội địa: Tăng tốc kết nối – đón vận hội mới” diễn ra ngày 19/9 ở Hà Nội, nhiều chuyên gia thẳng thắn nhìn nhận: mặc dù hệ thống cơ chế, chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ (CNHT) đã được ban hành khá toàn diện trong gần hai thập niên qua, song phần lớn DN trong nước vẫn nhỏ bé, thiếu vốn, hạn chế về công nghệ và quản trị. Hệ quả là cơ hội tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu vẫn chưa được khai thác hiệu quả.
Phó Trưởng phòng Nghiên cứu công nghiệp, Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương, Bộ Công Thương Nguyễn Mạnh Linh cho biết, ngay từ năm 2007, Việt Nam đã có Quyết định số 34/2007/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch phát triển CNHT giai đoạn 2010–2020. Sau đó, nhiều văn bản quan trọng như Quyết định 908 (2014), Nghị định 111/2015/NĐ-CP hay Nghị quyết 115/NQ-CP (2020) lần lượt ra đời, đặt ra mục tiêu đến năm 2030, CNHT đáp ứng 70% nhu cầu nội địa và hình thành khoảng 2.000 DN đủ năng lực cạnh tranh quốc tế.
Nghị quyết 29-NQ/TW (2022) về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cùng hàng loạt chính sách hỗ trợ khác, đã cho thấy quyết tâm mạnh mẽ của Đảng và Chính phủ. Mới đây nhất, Nghị định 205/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định 111 được ban hành với nhiều điểm mới: mở rộng đối tượng DN CNHT, tăng cường hỗ trợ chuyển giao công nghệ, phân cấp rõ ràng thẩm quyền cấp giấy xác nhận ưu đãi, bổ sung danh mục sản phẩm ưu tiên phát triển.
Thực tế, sau gần 20 năm, CNHT Việt Nam đã ghi nhận nhiều bước tiến. Cả nước hiện có khoảng 2.000 DN hoạt động trong lĩnh vực này, riêng Hà Nội chiếm tới 900 đơn vị, trong đó 320 DN đạt chuẩn quốc tế và đã tham gia vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn lớn. Một số lĩnh vực như linh kiện, phụ tùng cho ngành ô tô, xe máy, cơ khí, điện – điện tử đã đạt tỷ lệ nội địa hóa tương đối cao. Song nhìn tổng thể, con số này mới chỉ khoảng 36,6%; trong ngành điện tử và linh kiện thậm chí còn dưới 30%. Với ngành ô tô, mức nội địa hóa mới đạt 5–20%, còn cách xa mục tiêu đề ra.
Theo Trưởng ban Kết nối giao thương, Liên minh Hỗ trợ Công nghiệp Việt Nam (VISA) Trần Thanh Hòa, có 3 rào cản lớn nhất kìm hãm sự phát triển của CNHT Việt Nam. Thứ nhất, giá thành sản phẩm chưa đủ sức cạnh tranh. Thứ hai, chênh lệch tiêu chuẩn chất lượng với yêu cầu của các tập đoàn FDI. Thứ ba, hạn chế về vốn, công nghệ và thông tin kết nối khiến DN khó tiếp cận các đơn hàng lớn. Điều đáng lưu ý là sự kết nối giữa DN FDI và DN nội địa vẫn lỏng lẻo, chưa hình thành các chuỗi cung ứng ổn định. “Nguyên nhân chủ yếu là nhiều DN trong nước chưa đáp ứng được tiêu chuẩn kỹ thuật và chất lượng quốc tế. Niềm tin hợp tác vì thế chưa được củng cố” - bà Trần Thanh Hòa nhấn mạnh.
Cơ hội từ dịch chuyển chuỗi cung ứng
Dù vậy, theo các chuyên gia, cơ hội cho DN CNHT Việt Nam vẫn rất lớn. Trước hết, sự dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu sau đại dịch Covid-19 và những biến động địa chính trị đã buộc các tập đoàn đa quốc gia phải đa dạng hóa nguồn cung, tăng mua hàng tại chỗ nhằm tiết giảm chi phí logistics. Đây là thời cơ để DN nội địa chen chân sâu hơn vào các chuỗi sản xuất.
Hệ thống chính sách ngày càng hoàn thiện cũng mở ra hành lang pháp lý thuận lợi cho DN tiếp cận vốn, công nghệ, cũng như các chương trình kết nối – xúc tiến thương mại. Không ít địa phương như Hà Nội, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc đã chủ động ban hành đề án riêng, tạo hiệu quả rõ rệt trong việc nâng cao năng lực cho các DN CNHT.
Bà Trần Thanh Hòa đề xuất mô hình “tam giác liên kết” gồm: Nhà nước, DN FDI và DN nội địa, nhằm rút ngắn khoảng cách cung – cầu và hình thành cụm CNHT gắn với khu công nghiệp. “Thành công của Samsung khi nâng số nhà cung cấp Việt Nam lên 257, hay Toyota Việt Nam với 13 nhà cung cấp và hơn 1.000 sản phẩm xuất khẩu, là minh chứng rõ nét cho hiệu quả hợp tác” - bà Trần Thanh Hòa dẫn chứng và đề xuất, Nhà nước cần tiếp tục duy trì chính sách ưu đãi, xây dựng cơ sở dữ liệu về năng lực DN, tổ chức sàn giao dịch CNHT. DN FDI cần chia sẻ tiêu chuẩn kỹ thuật, hỗ trợ đào tạo và đặt hàng thí điểm, trong khi DN nội địa phải chủ động nâng cao công nghệ, quản trị chất lượng, đạt chuẩn quốc tế và gia tăng liên kết cụm ngành.
Ở góc độ DN, Phó Tổng giám đốc Công ty cổ phần Phần mềm Digiwin Việt Nam Nguyễn Hoàng Dũng cho rằng, chìa khóa để tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu nằm ở ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số. Các tập đoàn quốc tế đòi hỏi minh bạch toàn bộ dữ liệu: từ nguyên vật liệu, tồn kho, chất lượng đến hồ sơ giao dịch. Nếu chỉ quản lý thủ công bằng Excel hay giấy tờ, rất dễ sai sót, thiếu tin cậy. Theo ông Dũng, mô hình nhà máy thông minh, hệ thống quản trị dữ liệu và khả năng truy xuất nguồn gốc nhanh chóng chính là thước đo để đối tác FDI quyết định có gắn bó lâu dài với DN Việt hay không. “Chuyển đổi số chính là cầu nối rút ngắn khoảng cách giữa DN Việt và doanh nghiệp FDI” - ông Nguyễn Hoàng Dũng khẳng định.
Nhìn tổng thể, CNHT Việt Nam đang đứng trước một ngã rẽ quan trọng. Cơ hội đã mở ra, chính sách đã đầy đủ, song để biến tiềm năng thành hiện thực, cần sự chung tay của cả Nhà nước, DN FDI và DN nội địa. Đặc biệt, bản lĩnh của DN Việt trong việc đầu tư công nghệ, nâng cao quản trị và dám thay đổi sẽ quyết định liệu chúng ta có thể bứt phá, trở thành mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu hay không.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển dịch chuỗi giá trị, CNHT không chỉ là câu chuyện của vài ngành mũi nhọn, mà còn là nền tảng để Việt Nam thực hiện thành công chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiến tới mục tiêu trở thành quốc gia phát triển có thu nhập cao vào năm 2045.
Khảo sát của Liên minh Hỗ trợ Công nghiệp Việt Nam (VISA) cho thấy, tới 88% DN CNHT hiện thuộc nhóm siêu nhỏ, nhỏ và vừa; chỉ 10% đạt mức tự động hóa, khoảng 20% sở hữu chứng chỉ ISO hoặc tương đương. Điều này lý giải vì sao nhu cầu linh kiện, phụ tùng trong nước mới chỉ đáp ứng được khoảng 10%.