'Cõng chữ' vào bản Dốc Mây

Để dạy chữ cho học sinh (HS) bản Dốc Mây, xã Trường Sơn, những thầy giáo Trường tiểu học (TH) Long Sơn đã không ngại khó khăn, gian khổ và cả những hiểm nguy khi băng đèo, vượt suối. Sau hành trình 'cõng chữ', niềm hạnh phúc của các thầy là nhìn thấy những cô, cậu học trò người Bru-Vân Kiều biết đọc, biết viết, lớn khôn từng ngày…

Vượt suối, băng rừng vào bản dạy học

Tháng 11, những trận mưa rừng vẫn còn xối xả trắng cả núi rừng Trường Sơn. Con đường mòn từ bản PLoang vào Dốc Mây lầy lội, nước suối dâng cao nên không một phương tiện cơ giới nào có thể di chuyển được để vào bản. Để đến được Dốc Mây, mang con chữ đến với học trò, những thầy giáo Trường TH Long Sơn phải gùi gạo, thực phẩm, quần áo, bánh kẹo, thuốc men… "cắt rừng" đi bộ vào bản bằng một con đường khác ngắn hơn nhưng đầy nguy hiểm.

Hiệu trưởng Trường TH Long Sơn Trương Thị Vân cho biết: “Do đường vào bản Dốc Mây quá xa, đi lại hiểm trở nên nhà trường phân công, động viên giáo viên nam vào đó dạy học. Mỗi lượt sẽ có 2 thầy giáo vào bản, dạy xong 2 tuần thì quay ra đổi cho giáo viên khác. Cũng may là các thầy có sức khỏe, kỹ năng đi rừng, bơi lội tốt, trách nhiệm cao với công việc”. Trường TH Long Sơn có 36 cán bộ, giáo viên, nhân viên, trong đó có 8 thầy giáo.

Các thầy giáo băng rừng, vượt suối vào bản Dốc Mây - Ảnh: NVCC

Các thầy giáo băng rừng, vượt suối vào bản Dốc Mây - Ảnh: NVCC

Để vào bản Dốc Mây, từ trung tâm xã Trường Sơn, các thầy giáo đi xe máy khoảng 15km đến bản Trung Sơn rồi đi bộ. Thử thách đầu tiên của những người “cõng chữ” nơi đây là leo dốc La A. Đây là con dốc cao, dài nhất trong hành trình với khoảng 5km.

Thầy giáo Nguyễn Xuân Thành, giáo viên Trường TH Long Sơn, người đã gắn bó nhiều năm với bản Dốc Mây chia sẻ: “Mùa mưa lũ, dốc La A rất trơn trượt nên chúng tôi thường xuyên bị té ngã. Còn mùa nắng nóng leo lên được con dốc cũng mệt bở hơi tai, phải nghỉ dọc đường nhiều lần. Những chuyến đi dài, vất vả nhưng chúng tôi chưa từng chùn bước”.

Tiếp theo sau con dốc là khe La A đầy nguy hiểm. Mùa nước cạn, dọc khe là lối mòn của người dân đi lại, còn mùa này, nước dâng lên cao, có chỗ ngập sâu nên phải bơi, lội. Quãng đường dưới khe dài khoảng 4km nhưng mất 2 giờ di chuyển mới vượt qua được.

Thầy giáo Nguyễn Văn Hiện, người có 10 năm vào công tác ở bản Dốc Mây kể: “Có những ngày mưa lũ, chúng tôi phải bơi qua khe La A để ra vào bản dạy học, đôi khi gặp nước chảy xiết bị cuốn trôi, may mà người thoát được còn hành lý thì trôi mất. Đến mùa đông, nước có cạn hơn nhưng cũng phải lội trong nước lạnh cả giờ đồng hồ”. Sau khi vượt qua khe La A, những thầy giáo của Trường TH Long Sơn tiếp tục cuốc bộ khoảng 6km, vượt qua nhiều con dốc, con suối nữa mới vào được bản Dốc Mây.

Phó Hiệu trưởng Trường TH Long Sơn Nguyễn Văn Cảm chia sẻ: “Mặc dù làm quản lý nhưng tôi vẫn vào bản Dốc Mây để dạy học, chia sẻ khó khăn với đồng nghiệp. Tuy công việc vất vả, nguy hiểm nhưng với lòng yêu nghề nên chúng tôi luôn sẵn sàng”…

Niềm vui của người “cõng chữ”

Bản Dốc Mây có 27 hộ dân, 107 nhân khẩu sinh sống tập trung trong một thung lũng nhỏ. Nơi đây vẫn chưa có lưới điện quốc gia, sóng điện thoại. Cuộc sống của người dân chủ yếu dựa vào nương rẫy, các sản vật từ rừng và nguồn hỗ trợ của Nhà nước, cộng đồng nên 100% hộ dân đều thuộc diện hộ nghèo. Điểm trường bản Dốc Mây có 2 lớp học ghép với 22 HS.

Đa số các em HS lớp 1 chưa thành thạo tiếng phổ thông nên việc tiếp nhận kiến thức còn hạn chế. “Để dạy lớp ghép, tôi phải soạn 3 giáo án khác nhau. Tuy gặp nhiều khó khăn, vất vả nhưng tôi tự nhủ bản thân mình phải cố gắng hơn nữa để mang con chữ đến cho các em”, thầy giáo Nguyễn Xuân Thành tâm sự.

Một buổi dạy, học của thầy và trò điểm trường Dốc Mây - Ảnh: X.V

Một buổi dạy, học của thầy và trò điểm trường Dốc Mây - Ảnh: X.V

Ngoài việc dạy học, nhiều lúc các giáo viên cắm bản còn phải lo cho HS cái ăn, cái mặc, duy trì sĩ số lớp. Do đó, mỗi lần được về xuôi, các thầy giáo đều vận động, thu gom quần áo cũ, mua sách vở, bánh kẹo, thuốc chữa bệnh mang lên tặng các em và bà con dân bản.

Bí thư Chi bộ bản Dốc Mây Hồ Văn Chơi bảo: “Người dân nơi đây không chỉ xem thầy giáo là người dạy chữ mà còn như anh em ruột thịt. Bởi các thầy thương HS như con mình. Có áo ấm là mang lên tặng HS, có thuốc chữa bệnh cũng để dành chia sẻ cho bà con”.

Quý trọng các thầy, bà con dân bản đã chia sẻ từng củ sắn, lon gạo, bó rau rừng... “Khó khăn là vậy nhưng chúng tôi chưa bao giờ nản lòng. Mỗi buổi sáng, khi học trò ùa vào lớp, nụ cười, ánh mắt các em sáng lên là mọi khó khăn của chúng tôi dường như tan biến”, thầy Cảm trải lòng.

Mới đây, thông qua kết nối của phóng viên Báo và phát thanh, truyền hình Quảng Trị, nhóm thiện nguyện Từ Tâm và các nhà hảo tâm ở Hà Nội đã tổ chức chương trình “Thắp sáng Dốc Mây”. Chương trình đã tặng 1 công trình điện năng lượng mặt trời, tủ lạnh cho điểm trường bản Dốc Mây và nhiều phần quà cho bà con, giáo viên, HS.

Niềm vui của những thầy giáo dạy chữ ở bản Dốc Mây dịp 20/11 là được học trò mang tặng những củ sắn, túi lúa rẫy, bó hoa rừng… Đó là món quà quý đối với các thầy, bởi người tặng đã gửi gắm vào đó cả lòng biết ơn.

Em Hồ Văn Thiên, học sinh lớp 3, điểm trường Dốc Mây bộc bạch: “Con thương và quý trọng các thầy nhiều lắm. Con sẽ cố gắng học thật giỏi để sau này làm giáo viên, dạy chữ cho dân bản mình”.

Từ những lớp ghép đơn sơ ấy, nhiều thế hệ học trò người Bru-Vân Kiều ở bản Dốc Mây đã bước ra khỏi bản, học lên THCS, THPT, học nghề... Mỗi lần đón tin học trò trưởng thành, các thầy lại ngập tràn niềm vui, hạnh phúc. Đoạn đường dốc La A như ngắn hơn, dòng nước xiết khe La A cũng như bớt dữ dội hơn trên hành trình của những người “cõng chữ” vào bản Dốc Mây…

Xuân Vương

Nguồn Quảng Trị: https://baoquangtri.vn/giao-duc/202511/cong-chu-vao-ban-doc-may-49e43d1/