Cơ hội tiếp cận thị trường Halal toàn cầu
Chỉ kết nối và kết nối sâu hơn nữa mới có thể hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh, phát triển và thâm nhập thị trường Halal toàn cầu.
Viện Nghiên cứu Chiến lược chính sách Công Thương, Bộ Công Thương vừa tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế “Tiếp cận thị trường Halal toàn cầu - cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam” tại Hà Nội.

Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hoàng Long. Ảnh: Bộ Công Thương
Phát biểu khai mạc, Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hoàng Long nhấn mạnh: Đây là sự kiện rất quan trọng, bởi lẽ Halal là thị trường vô cùng quan trọng và chưa được khám phá bởi doanh nghiệp Việt Nam, dù Việt Nam thuộc các nước Top đầu về xuất khẩu. Vì lẽ đó, thời quan qua Chính phủ, đại diện bộ, ngành và Bộ Công Thương rất quan tâm thúc đẩy, hỗ trợ doanh nghiệp tham gia thị trường đầy tiềm năng này. Do vậy, chỉ kết nối và kết nối sâu hơn nữa mới có thể hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh, phát triển và thâm nhập thị trường Halal toàn cầu.
Theo ông Mato’ Tan Yang Thai - Đại sứ Malaysia tại Việt Nam, Halal không còn là thị trường ngách mà đang trở thành động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quy mô toàn cầu. Điều này được thúc đẩy bởi quy mô người hồi giáo ngày một tăng, dự báo đạt 2,76 tỷ người vào năm 2050. Người tiêu dùng cũng nhận thức sâu sắc về sản phẩm xanh, sạch, an toàn và trách nhiệm.
Đặc biệt, thị trường Halal toàn cầu ước tính có giá trị 2.710 tỷ USD năm 2024, dự kiến tăng lên đến 5000 tỷ USD vào năm 2030. Doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập thành công thị trường Halal không chỉ ở việc đáp ứng các tiêu chuẩn và còn xây dựng được cộng đồng tiêu dùng mạnh và trung thành.
Việt Nam có năng lực sản xuất tốt với nhiều sản phẩm chất lượng như trái cây, hải sản… là thuận lợi cho phát triển sản phẩm Halal và bước vào thị trường này. Theo dự báo Việt Nam có thể 30 tỷ USD hàng hóa cho Tổ chức hợp tác Hồi giáo.
Nhiều thập kỷ qua, Malaysia xây dựng hệ sinh thái Halal khá toàn diện từ nguyên liệu, sản xuất tiêu thụ và logistics toàn cầu từ sản xuất, logistics, tài chính nên chứng chỉ của Malaysia được nhận định có uy tín hàng đầu. Với những điều kiện có được Malaysia có thể hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập thị trường tiềm năng Halal. Đặc biệt, chứng chỉ Halal được nhận định có uy tín trên toàn cầu, doanh nghiệp Việt Nam sở hữu chứng chỉ này có thể thuận lợi hơn trong đưa sản phẩm ra thị trường.Đặc biệt, Triển lãm quốc tế sản phẩm Halal tại Malaysia tháng 9/2025 với 14 lĩnh vực Halal khác nhau là cơ hội tốt để doanh nghiệp Việt Nam khám phá toàn bộ chuỗi giá trị Halal, gặp gỡ đối tác, tìm kiếm nhà cung cấp để thâm nhập sâu hơn vào thị trường tiềm năng này.Tuy nhiên, theo ông Đinh Công Hoàng - Viện Nghiên cứu Nam Á, Tây Á và châu Phi thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Halal là thị trường bị lãng quên bởi đây là thị trường có quy mô rất lớn với 7.000 tỷ USD năm 2024, dự kiến đạt 10.000 tỷ USD năm 2028, đạt tốc độ tăng trưởng hàng năm 6-8%.Hơn nữa, dân số Hồi giáo lớn và đang phát triển, năm 2024 là 2 tỷ người, dự báo năm 2030 tăng lên 2,2 tỷ người, năm 2050 đạt 2,9 tỷ người, chiếm 1/3 dân số thế giới. Cùng đó, tốc độ tăng trưởng tổng ngân sách quốc nội (GDP) của các nước Hồi giáo rất cao, năm 2024 đã đạt 4,2% và dự báo tiếp tục tăng mạnh trong những năm tới.Thế nhưng tại Việt Nam, việc khai thác thị trường Halal còn nhỏ lẻ. Năm 2024, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Halal của Việt Nam sang Trung Đông ước đạt gần 700 triệu USD. Trong số hàng hóa Halal xuất khẩu của Việt Nam, thủy sản chiếm tỷ trọng lớn nhất, tiếp đó đến các mặt hàng nông sản như trái cây, các loại hạt, cà phê, chè và gia vị...thực phẩm chế biến.

Quang cảnh hội thảo. Ảnh: Bộ Công Thương
Theo nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Chiến lược, chính sách (Bộ Công Thương) hiện chỉ khoảng 0,2% doanh nghiệp Việt Nam có sản phẩm đạt chứng nhận Halal, tập trung tại TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương. Phần lớn doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp khó trong tiếp cận tiêu chuẩn Halal do thiếu thông tin. Điều này gây hạn chế khả năng gia nhập các chuỗi cung ứng Halal phức tạp hơn, nhất là ở các thị trường cao cấp.
Không những thế, việc quản lý Nhà nước về ngành Halal cũng còn manh mún, thiếu đầu mối điều phối chung, dẫn đến sự phân tán giữa các bộ ngành và mỗi bộ ngành triển khai các hoạt động riêng rẽ, chưa tạo ra hệ thống chính sách đồng bộ.Bên cạnh đó, thị phần sản phẩm Halal Việt Nam trên thị trường toàn cầu rất nhỏ bé khi 85% sản phẩm xuất khẩu ở dạng nguyên liệu thô hoặc thực phẩm sơ chế, ít có sản phẩm chế biến sâu, mỹ phẩm Halal hay dược phẩm sinh học đạt chuẩn xuất khẩu. Các thương hiệu Halal Việt Nam chưa thực sự hiện diện mạnh mẽ và bền vững tại các hệ thống phân phối lớn ở Trung Đông, ASEAN hay Nam Á. Đặc biệt, Việt Nam chưa có chuỗi cung ứng Halal hoàn chỉnh. Thiếu hụt hạ tầng trọng yếu như kho lạnh, giết mổ, chế biến, logistics và trung tâm kiểm nghiệm đạt chuẩn Halal… là những rào cản lớn cũng đồng thời kéo tăng chi phí, kéo dài thời gian ra thị trường của doanh nghiệp.Ông Đinh Công Hoàng cho hay: Chính phủ Việt Nam rất quan tâm phát triển ngành Halal. Theo đó, Chính phủ đã xây dựng định hướng chiến lược về phát triển ngành Halal đến năm 2030, trong đó có Đề án về "Tăng cường hợp tác quốc tế để xây dựng và phát triển ngành Halal Việt Nam đến năm 2030"; thành lập Trung tâm Chứng nhận Halal quốc gia, hoàn thiện các quy định pháp lý và tiêu chuẩn về Halal quốc gia…Tuy nhiên, để ngành này thực sự trở thành một lực đẩy cho phát triển kinh tế Việt Nam, ông Đinh Công Hoàng cho rằng, Việt Nam còn phải vượt qua nhiều rào cản. Đáng kể nhất là không nhiều người Việt Nam, doanh nghiệp Việt Nam có hiểu biết về Halal. Quá trình chứng nhận Halal tại Việt Nam vẫn phức tạp và chưa được hài hòa hóa với quốc tế.Cùng đó, chi phí cao đối với doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư vào các dây chuyền sản xuất, thiết bị chuyên dụng, nguồn nguyên liệu an toàn và tuân theo các tiêu chuẩn Halal. Do đó, thiếu vắng một hệ sinh thái Halal đầy đủ (gồm sản xuất, dịch vụ, hạ tầng cơ sở và hỗ trợ của Nhà nước) để phát triển ngành Halal bền vững.Theo các chuyên gia, để vượt qua thách thức cơ quan quản lý Nhà nước cần bắt tay cùng cộng đồng doanh nghiệp triển khai hiệu quả Đề án “Tăng cường hợp tác quốc tế để xây dựng và phát triển ngành Halal Việt Nam đến năm 2030”. Bên cạnh đó, nâng cao nhận thức của người dân, doanh nghiệp, Chính phủ, địa phương tại Việt Nam về tiềm năng của thị trường Halal.Mặt khác, thành lập và vận hành cơ quan quản lý Halal tại Việt Nam và triển khai các hoạt động tiêu chuẩn hóa, thử nghiệm, cấp chứng nhận Halal cho doanh nghiệp và chuyên gia, ký kết các hiệp định công nhận tiêu chuẩn lẫn nhau với các quốc gia Hồi giáo. Đặc biệt, thiết lập hệ sinh thái Halal, thu hút cả đầu tư nước ngoài và đầu tư Halal trong nước, thúc đẩy xuất khẩu Halal trong các lĩnh vực ưu tiên (thực phẩm, nông sản, mỹ phẩm, du lịch, may mặc, giày dép…). Thúc đẩy chuyển đổi số và thương mại điện tử để xuất khẩu sang thị trường Halal.Ở vai trò đơn vị nghiên cứu, đại diện Viện Nghiên cứu Chiến lược chính sách Công Thương nhấn mạnh: Việt Nam đang ở giai đoạn khởi đầu trong phát triển ngành Halal. Thị trường Halal toàn cầu mở ra cơ hội cho phát triển kinh tế đa chiều. Tuy vậy, các cơ quan chức năng cần hoàn thiện cơ chế, chính sách đồng bộ, có trọng tâm và tầm nhìn dài hạn cho ngành Halal.Đáng lưu ý, cần đầu tư mạnh vào hạ tầng chuỗi cung ứng, nhất là logistics và kiểm soát chất lượng; phát triển năng lực doanh nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận chuẩn Halal và xây dựng thương hiệu; tăng cường hợp tác quốc tế, nhất là trong công nhận chứng nhận và mở rộng thị trường.Ngoài ra, phải xác định rõ tầm nhìn, mục tiêu phát triển dài hạn. Định hướng Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất, chế biến và phân phối sản phẩm Halal đáng tin cậy tại châu Á - Thái Bình Dương; tích hợp mục tiêu phát triển sản phẩm Halal vào các chương trình lớn. Xây dựng và quảng bá thương hiệu quốc gia sản phẩm Halal Việt Nam