Có cơ chế liên vùng để xử lý ô nhiễm không khí

Đánh giá cao phiên giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường diễn ra ngày 28/10 với các giải pháp rất cụ thể, TS. HOÀNG DƯƠNG TÙNG, Chủ tịch Mạng lưới không khí sạch Việt Nam cho rằng vấn đề bây giờ là phải nghiêm túc triển khai; trong đó, để giải quyết bài toán ô nhiễm không khí cần có cơ chế phối hợp liên vùng.

Đại biểu nắm chắc vấn đề, nêu giải pháp khả thi

- Theo dõi phiên giám sát “việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành” diễn ra ngày 28/10, ông có nhận xét gì?

- Qua theo dõi, có thể thấy phiên giám sát diễn ra rất sôi nổi. Tôi rất ấn tượng với Báo cáo giám sát của Đoàn giám sát khi đã nhìn thẳng, trực diện các vấn đề về bảo vệ môi trường. Báo cáo nêu khá đầy đủ, toàn diện các kết quả đã đạt được, chỉ rõ hạn chế, bất cập và nguyên nhân, trách nhiệm; đặc biệt là đã đề ra được các nhóm nhiệm vụ, giải pháp cụ thể cho từng giai đoạn, từ những giải pháp đột phá, cấp bách phải hoàn thành ngay trong 2026 đến các nhiệm vụ, giải pháp trung và dài hạn đến 2030.

Chủ tịch Mạng lưới không khí sạch Việt Nam Hoàng Dương Tùng.

Chủ tịch Mạng lưới không khí sạch Việt Nam Hoàng Dương Tùng.

Các đại biểu thảo luận đã bổ sung thông tin về công tác bảo vệ môi trường ở các lĩnh vực xử lý rác thải, nước thải, không khí, rác thải nhựa đại dương… đồng thời đề xuất nhiều giải pháp rất thiết thực. Tôi cũng ấn tượng và đồng tình với nhiều đại biểu khi cho rằng, trong thời đại số, công tác bảo vệ môi trường cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, dựa trên số liệu quan trắc, chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm, quản lý không chỉ bằng giấy phép mà còn phải cảnh báo, dự báo… Điều đó cho thấy, các đại biểu đã nắm chắc vấn đề, từ đó đưa ra các giải pháp cụ thể, thiết thực, có tính khả thi cao.

Cần thiết xây dựng bản đồ ô nhiễm

- Ô nhiễm không khí tại các thành phố lớn đã gây những lo lắng cho người dân. Báo cáo giám sát đề xuất “thực hiện ngay các biện pháp cấp bách kiểm soát, ngăn chặn và khắc phục, cải thiện tình trạng ô nhiễm không khí Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh”. Theo ông, các giải pháp cấp bách này là gì?

- Có thể nói, ô nhiễm môi trường nói chung, ô nhiễm không khí tại các thành phố lớn nói riêng thời gian qua vẫn còn phức tạp, gây tâm lý bất an, lo lắng trong Nhân dân. Rất mừng là Báo cáo giám sát đã chỉ rõ thực trạng này và đề ra các giải pháp cả trong ngắn hạn và dài hạn rất cụ thể, như: Ban hành và triển khai hiệu quả Kế hoạch hành động quốc gia về khắc phục ô nhiễm và quản lý chất lượng môi trường không khí giai đoạn 2025 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045; kiểm soát chặt chẽ khí thải của phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, hoạt động đốt phế phẩm nông nghiệp, hạn chế phương tiện giao thông gây ô nhiễm môi trường không khí tại các đô thị lớn...

Tôi hoàn toàn đồng tình với các giải pháp này. Vấn đề là chúng ta cần làm quyết liệt các giải pháp, từ việc phát triển giao thông xanh, giao thông công cộng, kiểm soát bụi trong hoạt động xây dựng và cần có các hướng dẫn, chỉ tiêu cụ thể để tạo thuận lợi trong triển khai.

Tôi rất tán thành với một số đại biểu rằng đối với các cơ sở sản xuất phải xây dựng được bản đồ ô nhiễm. Thông qua bản đồ đó, chúng ta sẽ nắm bắt được đang có những nguồn thải (cơ sở ô nhiễm) nào, nằm ở đâu để có cảnh báo kịp thời. Song song, phải tăng cường hệ thống quan trắc cảnh báo, cách xử lý cần dựa trên số liệu nhiều hơn để bảo đảm tính chính xác, giải quyết tận gốc vấn đề.

Một điểm cũng cần hết sức lưu ý là ô nhiễm không khí mang tính chất liên vùng nên cần có cơ chế phối hợp liên vùng ngay và cơ chế đó phải hiệu quả để cùng phối hợp chia sẻ thông tin, nắm được nguyên nhân ô nhiễm để có cách xử lý kịp thời. Muốn cơ chế đó có hiệu quả thì phải có quy định mang tính chất nguyên tắc để các địa phương buộc phải thực hiện, có chế tài xử lý rõ ràng.

Giao KPI, gắn trách nhiệm người đứng đầu

- Để đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường nếu chỉ dựa vào nguồn lực của Nhà nước sẽ không đủ. Theo ông, đâu là mấu chốt để khuyến khích đầu tư xã hội hóa?

- Hiện nay, theo một số đại biểu, mức chi cho bảo vệ môi trường dưới 1% tổng chi ngân sách hằng năm là quá ít, cần tăng lên 1,2 - 1,5%. Tôi rất tán thành với đề xuất này và cần phân bổ nhiều hơn về cho cấp xã, bởi đây là cấp cơ sở trực tiếp thực thi.

Song, nếu chỉ dựa vào ngân sách sẽ không thể đủ, mà cần phải đẩy mạnh xã hội hóa. Tuy nhiên, thực tế từ nhiều dự án xây dựng nhà máy đốt rác phát điện, nhà máy xử lý nước thải sinh hoạt, cho thấy, chi phí đầu tư rất lớn, song cơ chế, chính sách đâu đó vẫn có những bất cập, đặc biệt liên quan định mức, đơn giá thấp, chưa phù hợp khiến họ không mặn mà.

Đơn cử, hiện nay, phí bảo vệ môi trường đối với nước thải sinh hoạt thường là 10% giá bán nước sạch. Song, giá nước sạch còn khá thấp, nếu 1m3 nước sạch có giá từ 6.000 - 7.000 đồng thì chỉ dành ra 600 - 700 đồng/1m3 nước thải sinh hoạt, trong khi để xử lý 1m3 nước thải sinh hoạt chi phí lên tới 11.000 - 12.000 đồng. Như vậy làm sao khuyến khích được nhà đầu tư?

Rất mừng là Báo cáo giám sát đã nhận thấy rõ vấn đề khi cho rằng một số định mức kinh tế - kỹ thuật, đơn giá còn lạc hậu chưa tạo động lực đủ mạnh thúc đẩy xã hội hóa đầu tư cho bảo vệ môi trường. Đây sẽ là căn cứ để chúng ta cần sửa đổi định mức, đơn giá cho phù hợp hơn với thực tế và phải linh hoạt.

Cùng với đó, cần rà soát toàn bộ các dự án về bảo vệ môi trường để nhận diện rõ những khó khăn, vướng mắc; nếu do quy định thì cần tiến hành sửa đổi, bổ sung kịp thời. Chỉ khi nào nhà đầu tư thấy tham gia vào các dự án bảo vệ môi trường có lợi thì họ sẽ sẵn sàng bỏ vốn đầu tư.

- Sau phiên giám sát này, ông có đề xuất gì cho công tác triển khai để bảo đảm công tác bảo vệ môi trường đạt hiệu quả thực chất hơn?

- Tôi mong rằng Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương cần sớm có chương trình, kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về chuyên đề giám sát bảo vệ môi trường. Quốc hội, Đoàn ĐBQH và HĐND các địa phương cần thực hiện tốt công tác giám sát thường xuyên, liên tục, để bảo đảm các nội dung của Nghị quyết cũng như các kế hoạch, chương trình hành động được thực hiện đúng, đủ.

Đặc biệt, cần giao KPI cụ thể cho các bộ, ngành, địa phương, đơn vị trong công tác bảo vệ môi trường, gắn với trách nhiệm người đứng đầu, trách nhiệm tập thể một cách rõ ràng, minh bạch, tránh tình trạng không ai chịu trách nhiệm khi địa phương xảy ra tình trạng ô nhiễm môi trường.

Trong bảo vệ môi trường, đừng đợi xảy ra hậu quả mới xử lý. Do đó, cần đẩy mạnh chuyển đổi số trong công tác quản lý, bảo vệ môi trường, làm tốt công tác cảnh báo, dự báo.

Chế tài xử lý cũng cần phải sửa đổi, bổ sung để nghiêm khắc hơn, mang tính răn đe hơn. Bởi nếu vi phạm môi trường mà chỉ xử lý 20, 50 triệu đồng, trong khi lợi nhuận họ thu lại lên tới hàng tỷ đồng thì số tiền xử phạt này quá ít. Nhiều nước áp dụng chính sách xử phạt lũy tiến. Chẳng hạn, hôm nay anh vi phạm bị phạt 50 triệu nhưng ngày mai không khắc phục sẽ tăng lên 70 triệu, một tuần sau là 200 triệu… như vậy mới đủ sức răn đe.

- Xin cảm ơn ông!

Đan Thanh thực hiện

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/co-co-che-lien-vung-de-xu-ly-o-nhiem-khong-khi-10393389.html