Có cơ chế huy động doanh nghiệp tham gia phòng, chống thiên tai
Để công tác phòng, chống thiên tai đạt hiệu quả tốt hơn trong thời gian tới, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách bảo đảm đầy đủ, khả thi, phù hợp với mô hình tổ chức bộ máy chính quyền địa phương hai cấp, trong đó có cơ chế để huy động nguồn lực tư nhân, doanh nghiệp tham gia.

Đợt mưa lũ lịch sử vào cuối tháng 10 vừa qua đã gây ngập lụt tại thành phố Đà Nẵng. Ảnh: Tấn Tài
Công tác phòng, chống thiên tai đạt chuyển biến toàn diện, sâu rộng
Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của thiên tai và biến đổi khí hậu. Thời gian qua, công tác phòng, chống thiên tai thường xuyên nhận được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước nên đã đạt được nhiều thành tựu to lớn.
Cụ thể, theo Cục Quản lý đê điều và phòng, chống thiên tai, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, hệ thống thể chế, quy phạm pháp luật ngày càng hoàn thiện, với việc Quốc hội thông qua Luật Phòng, chống thiên tai, Luật Đê điều, Luật Phòng thủ dân sự. Cùng với đó, cơ chế, chính sách từng bước được bổ sung, hoàn thiện: quy định đối với tình huống khẩn cấp về thiên tai; dự án khẩn cấp phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai; quy định về hoạt động khắc phục hậu quả thiên tai…
Tổ chức bộ máy và lực lượng phòng, chống thiên tai ngày càng lớn mạnh, chuyên nghiệp; hệ thống cơ sở hạ tầng phòng, chống thiên tai ngày càng nâng cao mức bảo đảm an toàn. Nhận thức của chính quyền, người dân các cấp được nâng lên, tham gia tích cực, có trách nhiệm vào công tác phòng, chống thiên tai.
Trong giai đoạn từ 2016 đến nay, đã đào tạo, tập huấn cho gần 117.000 cán bộ làm công tác phòng, chống thiên tai; tổ chức nhiều cuộc thi liên quan; đưa nội dung về phòng, chống thiên tai vào tài liệu đào tạo, hoạt động trải nghiệm của các cấp học từ tiểu học đến trung học phổ thông.
Thông qua hệ thống báo, đài từ Trung ương đến địa phương, mạng điện thoại di động, mạng xã hội, tổ chức nhắn tin đến các thuê bao trong khu vực nguy cơ bị ảnh hưởng do thiên tai lớn; đến nay đã có 77,37 triệu tin nhắn SMS, 635 triệu tin nhắn qua hệ thống zalo cảnh báo khẩn cấp đến người dân vùng có nguy cơ bị ảnh hưởng của thiên tai.
Hệ thống theo dõi, giám sát thiên tai chuyên dùng, thiết bị giám sát hành trình tàu thuyền trên biển, trạm theo dõi mưa, mực nước, camera giám sát hồ chứa đã được đẩy mạnh. Hiện cả nước có 215 trạm khí tượng bề mặt, 27 trạm khí tượng trên cao và ra-đa thời tiết, 2.599 điểm/trạm đo mưa tự động, 426 trạm thủy văn, 27 trạm quan trắc hải văn, 19 trạm giám sát biến đổi khí hậu…, góp phần tăng cường hiệu quả cho công tác chỉ đạo theo thời gian thực, bám sát diễn biến bất thường của thiên tai để kịp thời ứng phó.
Trong những năm gần đây, hệ thống công trình, cơ sở vật chất và các trang thiết bị cho công tác phòng, chống thiên tai đã được chú trọng đầu tư, phát huy hiệu quả và là cơ sở quan trọng góp phần giảm thiểu tác động của thiên tai. Hệ thống đê sông trên cả nước có chiều dài hơn 9.690km, hơn 700km kè, gần 1.700 cống qua đê, gần 26.000km đê bao, bờ bao chống lũ, ngăn mặn, hàng ngàn cụm tuyến dân cư vượt lũ ở đồng bằng sông Cửu Long và các địa phương. Bên cạnh đó, nhiều tuyến đường cứu hộ cứu nạn mùa mưa bão, đường tuần tra ven biển, nhiều diện tích cây chắn sóng cũng được chú trọng đầu tư.

Một trạm quan trắc khí tượng thủy văn. Ảnh: VGP
Trong giai đoạn 2021 – 2024, cả nước đã bố trí ổn định cho gần 22.000 hộ ở vùng có nguy cơ cao về thiên tai (lũ, lũ quét, sạt lở đất, ngập lụt), góp phần hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại về người, tài sản do thiên tai gây ra. Hoàn thành xây dựng đưa vào sử dụng 79 khu neo đậu, tránh trú bão cho tàu cá cấp vùng với công suất neo đậu cho khoảng 50.000 tàu cá và bảo đảm hoạt động tránh trú bão…
Chính những chuyển biến toàn diện và sâu rộng đó đã góp phần quan trọng giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây ra, Cục Quản lý đê điều và phòng, chống thiên tai đánh giá.
Hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu về thiên tai và biến đổi khí hậu
Biến đổi khí hậu tác động ngày càng nặng nề, phức tạp, khó lường, gây thiệt hại nghiêm trọng đến tính mạng, tài sản của nhân dân, ảnh hưởng trực tiếp tới an ninh lương thực, sản xuất nông nghiệp, kết cấu hạ tầng và sự phát triển bền vững của đất nước. Điều này đòi hỏi công tác phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai phải được đặt ở vị trí chiến lược, lâu dài và cấp bách trong thời gian tới.
Cục Quản lý đê điều và phòng, chống thiên tai đề nghị cần tập trung vào một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm.
Trước hết, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, vai trò nòng cốt của các lực lượng và sự tham gia tích cực của đông đảo nhân dân trong phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai.
Cần xác định công tác phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, thường xuyên của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Quán triệt sâu sắc quan điểm chủ động phòng ngừa là chính, kết hợp với các biện pháp thích ứng phù hợp, tôn trọng quy luật tự nhiên, thay đổi tư duy phát triển, bảo đảm phát triển bền vững. Xác định rõ trách nhiệm trong phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai theo phương châm “4 tại chỗ” (chỉ huy tại chỗ, lực lượng tại chỗ, phương tiện vật tư tại chỗ và hậu cần tại chỗ đối với các loại hình thiên tai.

Chính quyền cơ sở đến gõ cửa từng nhà, hỗ trợ người dân di tản trong mưa lũ. Ảnh: Tấn Tài
Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách bảo đảm đầy đủ, khả thi, thuận lợi cho việc thực hiện các nhiệm vụ phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai phù hợp với mô hình tổ chức bộ máy chính quyền địa phương hai cấp, trong đó có cơ chế để huy động nguồn lực tư nhân, doanh nghiệp tham gia; rà soát tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, cấp độ rủi ro thiên tai phù hợp đặc điểm thiên tai, điều kiện từng vùng, miền.
Cùng với đó, cần đổi mới, đa dạng hóa, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục, hướng đến thay đổi nhận thức, hành vi đối với công tác phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai. Chú trọng nâng cao năng lực, kiến thức, kỹ năng tuyên truyền, vận động, hướng dẫn, tổ chức việc phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai cho cán bộ, đảng viên; kỹ năng nhận biết, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai cho người dân. Quản lý và duy trì cơ sở hạ tầng thông tin truyền thông, bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt, kịp thời, chính xác trong mọi tình huống.
Tiếp tục sắp xếp, tổ chức bộ máy bảo đảm tính thống nhất, nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước và năng lực chỉ đạo, điều hành về phòng, chống thiên tai; tăng cường phân công, phân cấp, phân quyền cụ thể cho từng ngành; xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, địa phương và cơ quan điều phối liên ngành; chú trọng công tác bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác phòng, chống thiên tai từ Trung ương đến cơ sở.
Việc ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số trong phòng, chống thiên tai là yêu cầu cấp bách. Do vậy, cần triển khai quyết liệt, hiệu quả, cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, coi đây là giải pháp then chốt đột phá.
Bên cạnh đó, tăng cường đầu tư, từng bước hoàn thiện hạ tầng cho khoa học công nghệ, chuyển đổi số trong lĩnh vực phòng, chống thiên tai; hoàn thiện và vận hành hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về thiên tai và biến đổi khí hậu, tích hợp dữ liệu từ các ngành, địa phương, các bên liên quan; xây dựng nền tảng quản lý thiên tai trên môi trường số.
Song song, đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho công tác phòng, chống thiên tai; thu hút các chuyên gia, nhà khoa học có trình độ cao trong nước và ngoài nước tham gia nghiên cứu, ứng dụng, tư vấn về khoa học và công nghệ, chuyển đổi số trong phòng, chống thiên tai.






























